Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích hình tượng sóng và cảm nhận nét đẹp người phụ nữ khi yêu

mấy bạn lập dàn ý giúp mình với
1. Cảm nhận của anh chị về hình tượng đất nước trong phần đầu của bài đất nước- Nguyễn Khoa Điểm từ đó nhận xét cách cảm nhận riêng của nhà thơ về hình tượng đất nước
2 Phân tích hình tượng sóng và cảm nhận nét đẹp người phụ nữ khi yêu
3 Phân tích bài thơ sóng để làm rõ những suy tư trăn trở của người phụ nữ để hướng tới một tình yêu đích thực
6 trả lời
Hỏi chi tiết
362
3
0
mỹ hoa
02/01/2019 22:32:58
2/
Bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh sáng tác năm 1967, in lần đầu trong tập “Hoa dọc chiến hào “, xuất bản năm 1968. Bài thơ là lời tác giả nói với mình, nói với người về tình yêu trẻ trung, nồng nhiệt.
Đầu đề bài thơ là “Sóng “, toàn bài được dệt bằng hình tượng trung tâm ấy. Xuân Quỳnh đã nối tiếp một truyền thống trong văn học ta là lấy sóng để hình dung tình yêu:
“Dữ dội và dội êm
ôn ào và lặng lẽ
Sống không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra lận bể
ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
Bắt đầu là sóng nước. Đúng là như vậy, không kể ở sông hay ở bể, có lúc sóng dữ dội, ồn ào, có lúc lại dịu êm, lặng lẽ. Sóng luôn luôn biến đổi muôn hình muôn vẻ. Quan sát những biểu hiện đa dạng của sóng, Xuân Quỳnh tìm thấy sự tương hợp với ngược, nó chứa đựng những khá khao to lớn về một tình yêu chân chính. nhiều khi trái ngược, nó chứa đựng những khao khát to lớn về một tình yêu chân chính.
Từ sông, “Sóng tìm ra tận bể” nơi mênh mông rộng, vô cùng sâu, trời nước bao la, có nồm nam êm nhẹ, có bão tố dữ dội… Ở nơi như thế, may ra sóng mới hiểu nổi mình.
Mượn sóng để làm biểu tượng cho tình yêu, miêu tả sóng với những đặc điểm kì lạ cũng là để nói tới cái phức tạp đa dạng, khó giải thích của tình yêu: Giống như sóng, nhưng khát vọng tình yêu của con người thì muôn đời không thay đổi. “Con sóng ngày xưa” thế nào thì con sóng “Ngày sau vẫn thế”. Đó là quy luật bất di bất dịch của tự hiểu ơn về hơn về con người đích thực của em. Giữa đại dương mênh mông ấy, nơi nào là nơi bắt đầu của sóng? “Gió bắt đầu tư đâu?” Câu trả lời không phải dễ dàng. Thế là ra “tận bể” mà Sóng cũng vẫn chưa hiểu nổi mình. Em cũng hoà nhập vào biển lớn của tình yêu anh mà nào em đã hiểu em? Em yêu anh từ đâu? Giọng nói? Nụ cười? ánh mắt? “Em cũng không biết nữa” và chỉ cần hiểu rằng “ta yêu nhau” là đủ. Tâm trạng ấy có lẽ là điển hình của người đang yêu chăng?
Như vậy sóng là biểu tượng của tình yêu. Và sóng cũng là nỗi nhớ da diết, cháy bỏng. Nó choáng đầy không gian. thời gian, nó hiển hiện mọi nơi, mọi lúc:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”
Vẫn mượn chuyện sóng để nói chuyện người. Tình yêu của em chính là sóng đó.
Chỉ có sóng đại dương mênh mông mới có thể sánh được với khát vọng tình yêu của em. “Con sóng dưới lòng sâu, con sóng trên mặt nước ” là những cung bậc khác nhau của nổi em nhớ anh. Nỗi nhớ có cái biểu hiện trên bề mặt mà cũng có cái ẩn chứa tận “dưới lòng sâu”. Thức mà nhớ, không nói làm gì; trong mơ mà nhớ là cái nhớ đến dày vò, thao thức. Tình yêu là vậy: “Lòng em nhớ đến anh, Cả trong mơ còn thức”.
Ở trên đang còn che giấu ít nhiều nhờ lời sóng thì đến đây bỗng nhiên vứt bỏ cái vỏ vay mượn ấy đi, để trái tim tự thốt lên lời. Trái tim đòi nói thật bởi nó đầy ắp tình yêu và tình yêu ấy cũng đã chín muồi. Con sóng khao khát tới bờ để vỗ về, ve vuốt; em cũng khao khát mong được đến với anh, hoà nhập trong tình yêu anh. Tình yêu và khát vọng của người phụ nữ thật trong sáng và mãnh liệt.
Xuân Quỳnh còn mượn sóng để nói lên lòng chung thuỷ và niềm tin son sắt:
Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở.
Hãy nhìn những con sóng đại dương. Dù gió xô bão giật tới phương nào đi nữa, cuối cùng sóng vẫn trở về với bờ. Em cũng vậy. Cho dù gặp bao khó khăn, em cũng sẽ vượt qua hết để đến với anh, bởi tình yêu đã cho em sức mạnh. Niềm tin và nghị lực, em trên thấy ở thiên nhiên và ở chính mình. Khi đã yêu thực lòng, “Dù muôn với cách trở”, chúng ta vẫn đến được với nhau. An ủi động viên mình và cũng là an ủi, động viên người yêu để có thêm ý chí trên đường đi tìm hạnh phúc.
Cuối cùng, khát vọng tình yêu và hạnh phúc vĩnh cửu cũng được gửi gắm vào hình tượng sóng. Người phụ nữ mong muốn được sống trọn vẹn cho tình yêu và được hòa nhập với thiên nhiên vĩnh hằng bằng tình yêu của mình. Nỗi trăn trở đã thành bức xúc:
“Làm sao được tan ra, thành trăm con sóng nhỏ” trong đại dương bao la, vô tận kia để được sống mãi và yêu mãi : “Giữa biển lớn tình yêu, Để ngàn năm còn vỗ “.
Tình yêu bùng lên thành khát vọng. Khát vọng sôi sục mà vẫn khiêm nhường, đầy nữ tính. Mỗi câu, mỗi chữ trong đoạn thơ đều được chọn lựa, sắp xếp khéo léo nên giá trị biểu cảm rất cao.
Qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã làm nổi bật tâm trạng người con gái Việt Nam khi yêu: dịu đàng, thủ thỉ, đằm thắm mà không kém phần sôi nổi, mãnh liệt. Nét đẹp ấy được thể hiện bằng một hình thức tưởng như cũ mà lại rất mới. Hình tượng sóng nhiều nhà thơ lớp trước đã sử dụng nhưng vào thơ Xuân Quỳnh nó lại mang một vẻ đẹp lấp lánh, khác lạ.
Người đọc yêu mến bài thơ “Sóng” vì nó đã biểu hiện những gì tinh tế nhất, huyền diệu nhất của một tâm hồn phụ nữ khi yêu và một trái tim nhạy cảm luôn khao khát yêu thương.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
3
0
doan man
02/01/2019 22:33:02
2.
Nói về đề tài tình yêu trong thơ ca nói chung và trong thơ Xuân Quỳnh nói riêng, Sóng - một bài thơ tình nổi tiếng của Xuân Quỳnh. Hình tượng sóng thể hiện những trạng thái người phụ nữ trong tình yêu thấm đẫm chất trữ tình trong sáng. Hình tượng "Sóng" được tái hiện qua nhạc điệu bài thơ. Hình tượng Sóng đi: tả những cảm xúc, những sắc thái tình cảm vừa phong phú đa dạng, vừa thiết tha, sôi nổi của một trái tim đang rạo rực yêu đương.Hình tượng sóng hiện lên qua nhịp điệu nhẹ nhàng, lúc sôi nổi dồn dập, dịu êm, sâu lắng như nhịp sóng ngoài biển khơi, cũng là nhịp của những con sóng tình cảm của một trái tim khao khát yêu đương.
Nhà thơ sử dụng thể thơ 5 chữ với những dòng thơ liền mạch ít ngắt nhịp. Sự trở đi trở lại hồi hoàn của hình tượng sóng, biện pháp điệp từ ngữ, điệp cấu trúc, những từ láy... đã tạo nên nhạc điệu của những con sóng, đợt song liên tiếp gối lên nhau lúc tràn lên sôi nổi, lúc lắng lại dịu êm.
Hình tượng sóng mang ý nghĩa biểu tượng cho tình yêu và tâm trạng nhân vật trữ tình (người phụ nữ) trong bài thơ.
Sóng là biểu tượng cho sự bí ẩn trong tình yêu, biểu tượng cho niềm khát khao một tình yêu lớn, một tình yêu mãnh liệt.
Khổ thơ thứ nhất thể hiện hai trạng thái của sóng cũng là hai trạng thái của tình yêu tưởng như đối lập nhưng rất thống nhất (dữ dội - dịu êm; ồn ào lặng lẽ). Đó là sự bí ẩn của tình yêu. Cũng như sóng, con người tìm đến với tình yêu" để hiểu mình hơn (Sóng không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể).
Khổ thơ thứ hai là sự phát hiện sự tương đồng giữa sóng và quy luật muôn thuở của tình yêu. Sóng "ngày xưa" và sóng "ngày sau" vẫn thế giống như "nỗi khát vọng tình yêu/ bồi hồi trong ngực trẻ".
Khố thơ thứ ba và thứ tư tác giả dùng để cắt nghĩa về nguồn gốc của sóng và nơi bắt đầu của tình yêu. Cái hay của đoạn thơ là sự đầu hàng của nhận thức, là sự bất lực trong lôgic lí trí (Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau).
Sóng là biểu tượng cho nỗi nhớ trong tình yêu của người phụ nữ.Con sóng thao thức ở mọi chiều không gian, thời gian cũng như: "Lòng em nhớ đến anh / Cả trong mơ còn thức". Nhà thơ dùng liên tưởng đan cài để đồng nhất "sóng" và "em".
Sóng là biểu tượng cho sự thủy chung trong tình yêu của người phụ nữ. Nhà thơ sử dụng kết cấu: dẫu... thì... cùng với những đối lập (xuôi - ngược, bắc - nam) để khẳng định: "Nơi nào em cũng nghĩ/ Hướng về anh một phương". Ngoài việc khẳng định tình yêu chung thủy, Xuân Quỳnh còn muốn đề cập đến Iihừng thử thách trong tình yêu. Tình yêu cho ta sức mạnh vượt qua thử thách và qua thử thách tình yêu càng thêm bền vững.
Sóng là biểu tượng cho những trăn trở, lo âu trong cõi lòng người phụ nữ đang yêu. Đó là nỗi lo âu về cái hữu hạn của đời người, của tình yêu.
...Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Sóng là biểu tượng cho khát vọng mãnh liệt muốn bất tử hóa tình yêu. Những thơ sử dụng những đại lượng 1ớn có tính ước lệ (trăm, ngàn) cùng với những hình ảnh thuộc về vô biên (biển, sóng). Khát vọng của tâm hồn người phụ nữ đang yêu thật mãnh liệt. Đó là khát vọng của muôn đời, muôn người, khát vọng mang giá trị nhân văn sâu sắc, cao đẹp.
Sóng là một hình tượng không mới nhưng trở nên rất đẹp, một vè đẹp rất riêng trong cảm nhận của hồn thơ Xuân Quỳnh. Bằng hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã nói được những điều giản dị mà lớn lao của tâm hồn người phụ nữ đang yêu. Khát vọng tình yêu được gửi vào sóng khát vọng thành thực, khẩn thiết, nồng nàn và rất nhân văn.
2
0
doan man
02/01/2019 22:34:16
3.
I. Mở bài:
Sóng là bài thơ tình nổi tiếng của Xuân Quỳnh. Bài thơ được trích trong tập thơ Hoa dọc chiến hào (1968). Bài thơ này được in lại trong Tuyển tập thơ Việt Nam năm 1945 - 1985 của NXB Giáo dục 1985. Bài thơ đã bộc lộ một tâm hồn đắm say tha thiết và hồn nhiên, trong sáng, chung thủy và cao vời trong tình yêu của Xuân Quỳnh. Hay nói một cách khác, bài thơ đã bộc lộ khá rõ quan điểm về tình yêu của Xuân Quỳnh.
II. Thân bài:
1. Nhà thơ mượn hình tượng “Sóng” để nói về tình yêu:
a) Hình tượng “Sóng”:
“Sóng" là một hình tượng đẹp của thiên nhiên. Các thi nhân thường mượn hình tượng sóng để biểu đạt những sắc thái tình cảm của mình. Sóng có khi gợi lên một nỗi buồn mênh mang bất tận, “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp" - Huy Cận, có khi nó vừa gợi lên niềm vui, vừa gợi lên nỗi buồn “Ta nghe ý sóng từ thơ bé - Một nửa tràn vui, nửa quặn đau" - Huy Cận, có khi sóng là hình ảnh tượng trưng cho tình yêu ào ạt của người con trai:
Anh xin làm sóng biếc
Hôn bãi cát vàng em
Hôn thật khẽ, thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi
Đã hôn rồi hôn lại
Cho đến mãi muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt
(Biển - Xuân Diệu)
Có khi sóng là nhân vật trung gian, ngàn cách giữa hai kẻ yêu nhau: “Sắp gặp em rồi sóng lại đẩy xa thêm” - Chế Lan Viên. Còn sóng trong bài thơ này củaa Xuân Quỳnh là hình tượng biểu hiện cho một tình yêu nồng nàn, dào dạt, thiết tha, cao vời, bền bỉ và vĩnh hằng. Sóng và em trong bài thơ có mối quan hệ mật thiết với nhau. Sóng chính là biểu tượng tình yêu của em - người con gái đang yêu nồng nàn, say đắm.
b) Hai đối cực của sóng và cũng là hai hai đối cực của tình yêu: Xuân Quỳnh trong bài thơ Sóng đã mượn hình tượng sóng, chính là một hình tượng ẩn dụ để nói lên tính chất của tình yêu. Mở đầu bài thơ, Xuân Quỳnh đã đưa ra hai tính chất đối lập của sóng:
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Thật vậy, những khi biển động, sóng trào lên một cách dữ dội, biển lặng thì sóng lại dịu êm và lặng lẽ. Hai tính chất đối lập này của sóng cũng chính là hai tính chất đối lập của tình yêu. Tình yêu cũng như sóng, có lúc khát khao cháy bỏng, mãnh liệt, ào ạt nhưng có lúc lại dịu êm, lặng lẽ, mơ màng đi vào chiều sâu của sự trân trọng, lòng nhớ thương mong đợi.
Ta nhận thấy ở đây tâm hồn đang yêu của nhà thơ đã tự nhận thức về những biến động khác thường của lòng mình và khát khao vượt ra khỏi những cái tầm thường nhỏ bé của tình yêu để tìm đến những niềm bao la, vô tận, vĩnh cửu giữa cuộc đời như con sóng kia từ những dòng sông chật chội, giới hạn bởi đôi bờ tìm về với biển cả mênh mông:
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
2. Nỗi nhớ trong tình yêu của Xuân Quỳnh:
Xuân Quỳnh nói nhiều đến nỗi nhớ của người con gái trước hình tượng sóng:
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên.
Nỗi nhớ của nhà thơ được khơi đi từ những cái cao cả, lớn lao mà không hề tủn mủn, tầm thường, nhỏ nhặt chút nào. Nhà thơ như muốn đi tìm căn nguyên của tình yêu, tìm ta nơi khởi đầu của sóng: “Từ nơi nào sóng lên” để tìm ra nơi khởi đầu của tình yêu, nhưng quy luật của sóng là quy luật của tự nhiên nên có thể giải thích được, còn đi tìm căn nguyên của tình yêu và tìm câu giải đáp cho thật thỏa đáng thì thật là vô cùng khó khăn bởi tình yêu thuộc phạm trù tình cảm, mà chiều sâu lòng người và chiều sâu trái tim của mỗi con người làm sao hiểu hết được. Vì thế, trong tình yêu thì muôn đời có những câu hỏi mà ta không bao giờ ta trả lời được: “Vì sao ta yêu nhau?", “Khi nào ta yêu nhau?" cho nên nhà thơ cảm thấy lo lắng, thảng thốt:
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau?
“Em cũng không biết nữa”, câu thơ vừa chứa đựng một sự ngây thơ, bối rối, vừa chứa đựng đôi chút bất lực của nhà thơ trước câu hỏi: “Khi nào ta yêu nhau?". Câu hỏi mà muôn đời các thế hệ thi nhân vẫn chưa trả lời được. Ngay cả Xuân Diệu, một nhà thơ được mệnh danh là nhà thơ của tình yêu cũng đành bất lực:
Con nào cũng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
Đó chính là một niềm tin mãnh liệt vào một tình yêu chân chính, đích thực của Xuân Quỳnh. Thật vậy, một tình yêu chân chính, đích thực, cao cả sẽ giúp con người vượt qua bao sóng gió của cuộc đời để đưa “thuyền yêu" cập bến bờ hạnh phúc, yêu thương. Và nó như là một chân lí hiển nhiên:
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Và cũng chính là từ sự khái quát ấy, niềm tin mãnh liệt ấy mà tình yêu ở đây không mang màu sắc vị kỉ, tầm thường, nhỏ hẹp mà thật lớn lao và cao thượng. Cái niềm hạnh phúc riêng của nhà thơ như hòa chung vào cái niềm hạnh phúc của cuộc đời rộng lớn, cái riêng tồn tại trong cái chung bao la, rộng lớn ấy nên trở thành vĩnh cửu:
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
III. Kết bài:
Sóng là một trong những bài thơ tình nổi tiếng của Xuân Quỳnh. Bài thơ đã bộc lộ một tình yêu tha thiết, trong sáng, thủy chung, cao thượng với bao nỗi nhớ thương, niềm khao khát, sự tin yêu đầy hi vọng và khát khao. Đó cũng chính là lòng yêu đời, yêu cuộc sống và là niềm tin vào những gì tốt đẹp của cuộc đời, sở dĩ có được một tình yêu như vậy là vì lúc này Xuân Quỳnh chưa gặp những nỗi đau, niềm bất hạnh trong tình yêu như sau này
2
0
doan man
02/01/2019 22:36:29
1.
Từ sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, dân tộc ta đã phải tiến hành liên tiếp hai cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược để gìn giữ nền độc lập tự do và thống nhất Tổ quốc. Trong suốt ba mươi năm ấy, vận mệnh của đất nước luôn luôn là vấn đề lớn lao, nóng bỏng và chi phối mọi lĩnh vực của đời sống dân tộc và mỗi con người Việt Nam. Vì thế, cũng là lẽ tự nhiên, tình cảm yêu nước đã trở thành cảm hứng chủ đạo trong thơ ca hiện đại Việt Nam, tiếp nối một truyền thống sâu đậm của văn học dân tộc từ ngàn xưa. Tình cảm yêu nước được biểu hiện trong thơ ca ta thống nhất nhưng cũng rất đa dạng, phong phú tùy theo hoàn cảnh sáng tác, tâm trạng cụ thể của từng nhà thơ. Trường ca Mặt đường khát vọng được viết giữa những năm tháng hào hùng cả toàn quân, toàn dân ta đang tập trung sức lực, tập trung trí tuệ để chiến thắng đế quốc Mĩ, có vai trò không nhỏ của tầng lớp tuổi trẻ học sinh, sinh viên các thành thị vùng tạm chiếm miền Nam đang thức tỉnh, siết chặt đội ngũ xuống đường. Tầng lớp này cũng có nhiều tâm tư, nhiều suy ngẫm về thế hệ mình, về đất nước. Từ góc độ đó, ở Đất Nước, chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm đã định nghĩa, cảm nhận ngợi ca vẻ đẹp nhiều mặt của đất nước, trình bày ý thức trách nhiệm đối với vận mệnh dân tộc giữa cơn thử thách lớn của lịch sử. Hình tượng đất nước, trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, gắn với những nhân vật, hình ảnh hết sức cụ thể với những sinh hoạt rất đỗi thường ngày của mỗi chúng ta. Tình yêu lớn lao nhưng không hề xa xôi, trừu tượng mà được khơi gợi từ những sự vật, sinh hoạt gần gũi, từ những phong tục văn hóa có tự ngàn xưa. Đất nước có trong những câu chuyện cổ tích mẹ thường hay kể cho ta từ tuổi bé thơ, trong miếng trầu bây giờ bà ăn, trong lũy tre làng bao đời thành lũy thành chông cho dân mình đánh giặc. Đất nước gắn cùng tục búi tóc sau đầu, câu ca dao gừng cay muối mặn, gắn cùng cái kèo, cái cột, hạt gạo một nắng hai sương. Cảm nhận đất nước từ những cái bình thường quanh ta đã dẫn Nguyễn Khoa Điềm đến biện pháp nghệ thuật chiết tự. Từ ghép đất nước được tách thành đôi để nhà thơ định nghĩa thật cụ thể từng thành đôi.
Đất và Nước:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc
Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khai
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Dòng suy tưởng đưa Nguyễn Khoa Điềm trở về quá khứ, với huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ khẳng định cội nguồn thống nhất của con người Việt. Đất nước trường tồn trong thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông. Vậy là những hình ảnh, sự vật trên rất đỗi bình thường, nhưng đâu phải tầm thường; trong đó ẩn chứa sâu xa chiều dài lịch sử, truyền thống văn hóa với bao phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc. Gợi lên truyền thống lịch sử - văn hóa vững bền, không gian địa lí mênh mông của đất nước từ những điều giản dị, thường ngày, đó là thành công đặc biệt của Nguyễn Khoa Điềm ở đoạn trích này. Đất nước là đời sống, là hơi thở hàng ngày của mỗi chúng ta. Đất nước là sông bể mênh mông, núi rừng hùng vĩ. Đất nước trải suốt chiều dài lịch sử từ truyền thuyết Hùng Vương đến đạo lí Hàng năm ăn đâu làm đâu - Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ. Ai biết được tự bao giờ con người Việt Nam biết kể chuyện cổ tích, có tục ăn trầu... Ai biết được tự bao giờ con người Việt Nam biết làm bạn với cây tre, với cái kèo, cái cột... Đằng sau những điều giản dị ấy là truyền thống lịch sử — văn hóa lâu đời, bền vững của đất nước Việt Nam ta. Từ góc độ đời sống cá nhân, nhà thơ nói được cả cuộc sống cộng đồng, đưa đến cho người đọc cảm nhận toàn vẹn, tổng hợp về vẻ đẹp đất nước.
Làm nên truyền thống lịch sử - văn hóa độc đáo, vững bền của đất nước chính là bao thế hệ nhân dân. Bởi thế, lòng yêu nước của Nguyễn Khoa Điềm ở đoạn trích này gắn liền cùng lòng yêu nhân dân, cùng niềm tự hào về vai trò to lớn của nhân dân. Đất Nước của Nhân dân đã trở thành tư tưởng nổi bật, xuyên suốt đoạn trích Đất Nước này và chính ngay cách cảm nhận đất nước từ những điều bình dị, gần gũi như trên sẽ tự nhiên dẫn đến tư tưởng ấy.
Có lẽ chưa bao giờ như trong thời đại dân tộc Việt Nam ta đánh Mĩ, vai trò to lớn, sức mạnh vô địch của nhân dân được thể hiện đầy đủ đến thế. Cuộc đối chọi quyết liệt với một kẻ thù giàu có và hung bạo vào bậc nhất đòi hỏi phải huy động triệt để sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân. Bởi vậy, Đất Nước của Nhân dân đã trở thành tư tưởng chung của thời đại, đã chi phối toàn bộ nền văn học cách mạng và làm nên rất nhiều tác phẩm có giá trị. Trong bối cảnh ấy, đoạn trích Đất Nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm đã đóng góp một cách cảm nhận, cách thể hiện đặc sắc. Khi nói về bốn nghìn năm lịch sử của đất nước, nhà thơ không điểm lại các triều đại, những anh hùng nổi tiếng mà tự hào nhắc đến vô vàn lớp người vô danh bình dị:
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trờ về nuôi cái cùng con
Đối với nhân dân, cần cù làm lụng và ra trận đánh giặc, sống và chết đều thật giản dị và bình tâm vì lẽ tồn vong của đất nước. Khi đất nước thanh bình, họ "cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó". Khi đất nước gặp nạn ngoại xâm, họ đứng dậy cầm vũ khí, sẵn sàng xả thân vì độc lập, chủ quyền như lẽ tự nhiên. Chính những con người không ai nhớ mặt đặt tên ấy đã làm ra Đất Nước. Trong trường kì lịch sử, nhân dân là lực lượng chủ yếu sáng tạo, giữ gìn truyền lại mọi tài sản vật chất, mọi giá trị tinh thần để làm nên Đất Nước muôn đời:
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân.
Bao lớp người vô danh, thầm lặng ấy đã hóa thân cho đất nước vững bền. Nguyễn Khoa Điềm đã cảm nhận sự hóa thân của nhân dân hiển hiện trên gương mặt địa lí của đất nước. Không ít tác phẩm thơ văn đã nhắc tới những danh lam thắng cảnh, những sự tích núi sông của đất nước Việt Nam bốn ngàn năm văn hiến. Nhưng gắn chúng cùng số phận, cùng phẩm chất của những người dân bình dị, thấy trong đó cuộc đời hi sinh cao đẹp của quần chúng nhân dân, ấy là Nguyễn Khoa Điềm. Sau khi nhắc tới hàng loạt danh lam thắng cảnh, sự tích núi sông trên các miền đất nước, nhà thơ đi đến một khái quát thấm thía:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...
Làm sáng tỏ tư tưởng Đất Nước của nhân dân từ nhiều phía, nhiều chiều như thế, đoạn trích đã đem đến cho người đọc niềm tin vào sự trường tồn của đất nước. Đất Nước là của nhân dân, mà nhân dân thì mênh mông, vĩ đại và bất tử. Vì thế, Đất Nước này mãi mãi trường tồn cùng với nhân dân.
Chiêm ngưỡng tiếp nhận Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại từ góc độ thế hệ trẻ trong thời đại dân tộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm đã gợi nhắc trách nhiệm đối với vận mệnh đất nước. Phải chăng đây chính là mục đích của đoạn thơ Đất Nước này khi ra đời giữa những năm tháng chiến tranh quyết liệt, hào hùng, khi lịch sử đang yêu cầu mọi con người phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở. Ý thức trách nhiệm này được Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận, dẫn dắt rất tự nhiên cùng quá trình khám phá ngày càng sâu về đất nước. Ban đầu, đất nước là những gì thân thiết ở ngoài ta, ở xung quanh ta. Nhưng dần về sau, đất nước đã ở trong ta, đất nước có trong mỗi người:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cẩm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Mỗi con người hôm nay đều đang thừa hưởng những di sản vật chất và tinh thần quý báu của đất nước, của nhân dân, của bao thế hệ đi trước, vì thế phải biết cống hiến đời mình vì lẽ tồn vong của đất nước. Ý thức trách nhiệm được nhà thơ trình bày thật thiết tha. Đó là mệnh lệnh cất lên từ trái tim đang xúc động:
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...
Như vậy, tiếp thu nguồn mạch cảm hứng yêu nước chưa bao giờ vơi cạn trong lịch sử văn học Việt Nam, nằm trong bối cảnh của thời đại dân tộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ, đoạn trích Đất Nước trong trường ca Mặt đường khát vọng đã thể hiện những nhận thức, khám phá mới mẻ về vẻ đẹp đất nước. Trên nền văn hóa dân gian vững chắc, Nguyễn Khoa Điềm đã hướng sự tìm tòi, suy ngẫm tới nhiều bình diện như lịch sử, địa lí, phong tục... để làm nổi bật tư tưởng Đất Nước của Nhân dân và gợi nhắc ý thức trách nhiệm trước vận mệnh đất nước. Nhưng sức hấp dẫn của chương Đất Nước không chỉ ở các nội dung cảm nhận mà còn ở cách thể hiện của Nguyễn Khoa Điềm. Khi đưa vào đây nhiều kiến thức về lịch sử, địa lí, về văn hóa dân gian, thơ dễ sa vào diễn ca theo lối phô bày hiểu biết, dễ chỉ tác động vào lí trí mà khó lay thức tình cảm người đọc. Nguyễn Khoa Điềm đã vượt qua thử thách đó và Đất Nước vừa làm sáng bừng nhận thức, vừa lay động sâu xa tâm hồn mỗi con người Việt Nam. Cái gì đã tạo nên thành công ấy? Điều chủ yếu là do tất cả các kiến thức, tư liệu, sự kiện phong phú này đã được thẩm thấu qua tâm hồn chứa chan xúc cảm của Nguyễn Khoa Điềm và nhà thơ đã tìm được một cách nói riêng, bằng giọng điệu tâm tình, qua hồi ức lại những kỉ niệm riêng tư:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa..." mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Ngay từ phần mở đầu, Đất Nước dẫn ta vào câu chuyện tâm tình thiết tha, sâu lắng. Toàn bộ chương này được thể hiện bằng hình thức "anh" trò chuyện cùng "em". Với hình thức này, giọng điệu thơ tất phải ngọt ngào, thủ thỉ. Nguyễn Khoa Điềm nói về lịch sử mà như tâm sự về những kỉ niệm tuổi thơ, như nhắc lại những hồi ức cảm động về người thân trong gia đình là bà, là mẹ. Bề dày của lịch sử, của nền văn hóa phong phú, lâu đời, cả không khí của truyền thuyết Thánh Gióng, cổ tích Trầu Cau bỗng được sống dậy trong cảm nhận gần gũi của mỗi người đọc. Chính nhờ lối thể hiện ấy mà vẻ đẹp sâu xa của đất nước, ý thức trách nhiệm công dân trước vận mệnh đất nước được người đọc nhận cảm một cách tự nhiên, thấm thía.
Tiếp nối dòng mạch thơ ca yêu nước trong lịch sử văn học dân tộc, Đất Nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm đã mang nội dung cảm nhận cùng cách thể hiện thật độc đáo. Thành công của đoạn trích Đất Nước này góp phền chứng tỏ tầm trí tuệ, sức khám phá của một nhà thơ trưởng thành cùng thời đại kháng chiến chống Mĩ cứu nước anh hùng.
1
0
Quỳnh Anh Đỗ
03/01/2019 07:13:11
Đề 1:
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những cây bút tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ trong những năm chống Mĩ cứu nước. Thơ ông giàu chất suy tư, cảm xúc lắng động, thể hiện tâm tư của người tri thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân, mang màu sắc chính luận. Đoạn trích “Đất Nước” là một trong những bài thơ tiêu biểu của ông. Đoạn trích thể hiện cái nhìn mới mẻ về Đất Nước, và cái mới mẻ ấy thôi thúc chúng ta đi tìm cội nguồn của Đất Nước. Với 9 câu thơ đầu, Nguyễn Khao Điềm thể hiện quan niệm của mình về cội nguồn của Đất Nước thật đặc sắc.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Đoạn trích Đất Nước thuộc phần đầu , chương V của bản trường ca “Mặt đường khát vọng”. hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971,in lần đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ ở các đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sự mệnh thế hệ mình, xuống đường đấu tranh chống đế quốc Mĩ.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”
Câu thơ mở đầu là lời khẳng định tự nhiên, giản dị: “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”. Đất Nước có từ “khi ta lớn lên”, từ khi ta chưa ra đời, xuyên suốt bốn ngàn năm văn hiến. Như vậy, Đất Nước tồn tại như một điều hiển nhiên, nó có chiều sâu cội nguồn cũng như sự hình thành và phát triển bao đời nay. Với Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước thật gần gũi, hiện diện trong những câu chuyện cổ tích thường mở đầu bằng “ngày xửa ngày xưa”. Câu thơ khiến ta nhớ đến hình ảnh của người bà thường hay kể chuyện cho con cháu nghe, là hình ảnh cô Tấm bị mẹ con Cám bắt nạt, là hình là nàng tiên bước ra từ quả thị…. Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” thật quen thuộc và gần gũi với con người Việt Nam. Bởi, mỗi câu chuyện là mỗi bài học đạo lí dạy ta biết “ở hiền gặp lành”, biết thiện thắng ác, biết sống thủy chung,… Tác giả không dùng từ ngữ, hình ảnh hoa mĩ tráng lệ mang tính biểu tượng để thể hiện Đất Nước mà dùng cách nói giản dị, tự nhiên, dễ hiểu, dễ thấm vào lòng người. Tác giả giúp ta tìm hiểu Đất Nước có từ nền văn hóa dân gian cha ông ta để lại.
Tác giả cảm nhận Đất Nước gắn với phong tục tập quán, hình thành nên bản sắc văn hóa riêng của dân tộc:
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”
“Miếng trầu bà ăn” là miếng trầu tình nghĩa trong “sự tích trầu cau” khiến ta rung rung nước mắt về tình cảm vợ chồng, về tình nghĩa an hem gắn bí. Từ đó, hình ảnh “trầu cau” trở thanh “miếng trầu là đầu câu chuyện”, trở thành thứ không thể thiếu được trong lễ cưới, tượng trưng cho tình nghĩa đằm thắm, thủy chung.
“Tóc mẹ thì bới sau đầu”
Đó là hình ảnh đặc thù của người phụ nữ Việt Nam , thùy mị, duyên sáng và thật đáng yêu. Nét đẹp ấy làm ta gợi nhớ đến câu ca dao:
“Tóc ngang lưng vừa chừng em búi
Để chi dài bối rối lòng anh”
Không những chỉ là những cảm nhận ở trên về Đất Nước mà Nguyễn Khoa Điềm còn cảm nhận Đất Nước trong vẻ đẹp tình yêu của cha mẹ với lối sống nặng tình nặng nghĩa như “gừng cay muối mặn”
“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
Dù gian nan , dù cay đắng nhưng cha mẹ vẫn đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi để tình cảm thêm mặn nồng, thắm thiết. Hình ảnh thơ gợi ta nhớ câu ca dao:
“Tay bưng đĩa muối, chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Hay
 “Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chin tháng vẫn hãy còn cay
Đôi ta tình nặng nghĩa đầy
Dù ba vạn sáu ngàn ngày cũng chẳng xa”
Từ cha mẹ thương nhau mới đi đến “Cái kèo cái cột thành tên”. Câu thơ gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt. Đó là tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió, thú dữ. Đó cũng là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau; siêng năng tích góp mỡ màu dồn thành sự sống. Từ đó, tục  đặt tên con cái Kèo, cái Cột cũng ra đời.
Đất Nước ta từ ngàn đời đã có truyền thống chống giặc ngoại xâm hào hùng của dân tộc:
“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Hình ảnh “cây tre” là biểu tượng của người Việt Nma, gắn với đời sống thường ngày và có lúc trở thành vũ khí xông pha ra chiến trường đánh giặc, Thánh Gióng từng nhổ tre đánh giặc Ann, nhà văn Thép Mới cũng từng nhận ra:
“Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chin”
Tre thật thà chất phác, đôn hậu, yêu thủy chung yêu chuộng hòa bình nhưng cũng kiên cường bất khuất trong chiến tranh. Tre đứng thẳng hiên ngang bất khuất cùng chia lửa cho dân tộc:
“Một cây chông cũng tiến công giặc Mĩ”
Bởi
“Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường”
Đâu chỉ có những vẻ đẹp trên, dân tộc ta còn có truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó:
“Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sáng”
Thành ngữ “một nắng hai sương” và các động từ liên tiếp xay, giã, giần , sàng gợi lên sự vất vả và triền miên của người nông dân trên đồng rộng. Đất Nước gắn với nên văn minh lúa nước , lấy hạt gạo làm gia bảo, gắn liền với quá trình lao động vất vả để có được hạt gạo, để sinh tồn. Ý thơ thật sâu sắc. Câu thơ gợi nhắc đến ca dao:
“Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cà
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
Từ Đất Nước viết hoa diễn tả tình cảm thiêng liêng đối với Đất Nước. Giongj thơ trữ tình ,câu thơ dài ngắn đan xen thể hiện cảm xúc tư nhiên, phóng khoáng. Ngôn ngữ giản dị, sử dụng sáng tạo các chất liệu từ văn học dân gian tạo chiều sâu cho ý thơ.
1
0
Quỳnh Anh Đỗ
03/01/2019 07:15:37
Đề 2:
Nói về đề tài tình yêu trong thơ ca nói chung và trong thơ Xuân Quỳnh nói riêng, Sóng - một bài thơ tình nổi tiếng của Xuân Quỳnh. Hình tượng sóng thể hiện những trạng thái người phụ nữ trong tình yêu thấm đẫm chất trữ tình trong sáng.
Hình tượng "Sóng" được tái hiện qua nhạc điệu bài thơ. Hình tượng Sóng đi: tả những cảm xúc, những sắc thái tình cảm vừa phong phú đa dạng, vừa thiết tha, sôi nổi của một trái tim đang rạo rực yêu đương.Hình tượng sóng hiện lên qua nhịp điệu nhẹ nhàng, lúc sôi nổi dồn dập, dịu êm, sâu lắng như nhịp sóng ngoài biển khơi, cũng là nhịp của những con sóng tình cảm của một trái tim khao khát yêu đương.
Nhà thơ sử dụng thể thơ 5 chữ với những dòng thơ liền mạch ít ngắt nhịp. Sự trở đi trở lại hồi hoàn của hình tượng sóng, biện pháp điệp từ ngữ, điệp cấu trúc, những từ láy... đã tạo nên nhạc điệu của những con sóng, đợt song liên tiếp gối lên nhau lúc tràn lên sôi nổi, lúc lắng lại dịu êm.
Hình tượng sóng mang ý nghĩa biểu tượng cho tình yêu và tâm trạng nhân vật trữ tình (người phụ nữ) trong bài thơ.
Sóng là biểu tượng cho sự bí ẩn trong tình yêu, biểu tượng cho niềm khát khao một tình yêu lớn, một tình yêu mãnh liệt.
Khổ thơ thứ nhất thể hiện hai trạng thái của sóng cũng là hai trạng thái của tình yêu tưởng như đối lập nhưng rất thống nhất (dữ dội - dịu êm; ồn ào lặng lẽ). Đó là sự bí ẩn của tình yêu. Cũng như sóng, con người tìm đến với tình yêu" để hiểu mình hơn (Sóng không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể).
Khổ thơ thứ hai là sự phát hiện sự tương đồng giữa sóng và quy luật muôn thuở của tình yêu. Sóng "ngày xưa" và sóng "ngày sau" vẫn thế giống như "nỗi khát vọng tình yêu/ bồi hồi trong ngực trẻ".
Khố thơ thứ ba và thứ tư tác giả dùng để cắt nghĩa về nguồn gốc của sóng và nơi bắt đầu của tình yêu. Cái hay của đoạn thơ là sự đầu hàng của nhận thức, là sự bất lực trong lôgic lí trí (Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau).
Sóng là biểu tượng cho nỗi nhớ trong tình yêu của người phụ nữ.Con sóng thao thức ở mọi chiều không gian, thời gian cũng như: "Lòng em nhớ đến anh / Cả trong mơ còn thức". Nhà thơ dùng liên tưởng đan cài để đồng nhất "sóng" và "em".
Sóng là biểu tượng cho sự thủy chung trong tình yêu của người phụ nữ. Nhà thơ sử dụng kết cấu: dẫu... thì... cùng với những đối lập (xuôi - ngược, bắc - nam) để khẳng định: "Nơi nào em cũng nghĩ/ Hướng về anh một phương". Ngoài việc khẳng định tình yêu chung thủy, Xuân Quỳnh còn muốn đề cập đến Iihừng thử thách trong tình yêu. Tình yêu cho ta sức mạnh vượt qua thử thách và qua thử thách tình yêu càng thêm bền vững.
Sóng là biểu tượng cho những trăn trở, lo âu trong cõi lòng người phụ nữ đang yêu. Đó là nỗi lo âu về cái hữu hạn của đời người, của tình yêu.
...Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Sóng là biểu tượng cho khát vọng mãnh liệt muốn bất tử hóa tình yêu. Những thơ sử dụng những đại lượng 1ớn có tính ước lệ (trăm, ngàn) cùng với những hình ảnh thuộc về vô biên (biển, sóng). Khát vọng của tâm hồn người phụ nữ đang yêu thật mãnh liệt. Đó là khát vọng của muôn đời, muôn người, khát vọng mang giá trị nhân văn sâu sắc, cao đẹp.
Sóng là một hình tượng không mới nhưng trở nên rất đẹp, một vè đẹp rất riêng trong cảm nhận của hồn thơ Xuân Quỳnh. Bằng hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã nói được những điều giản dị mà lớn lao của tâm hồn người phụ nữ đang yêu. Khát vọng tình yêu được gửi vào sóng khát vọng thành thực, khẩn thiết, nồng nàn và rất nhân văn.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 12 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư