2. Trong các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển & phân bố nông nghiệp nhân tố nào có q trò q trọng nhất quyết định sự phát triển của ngành:
a. Đất đai
Đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng nhất trong nông nghiệp; cây trồng - vật nuôi là đối tượng lao động trong sản xuất nông nghiệp. Chính vì thế, nhân tố quan trọng hàng đầu đối với sản xuất nông nghiệp là đất đai rồi mới đến khí hậu và nguồn nước. Đất đai ảnh hưởng quyết định đến qui mô, cơ cấu và phân bố nông nghiệp (đặc biệt là với ngành trồng trọt).
Nước ta có 2 nhóm đất chính (feralit và đất phù sa). Tuỳ theo các nhân tố, điều kiện hình thành và sự tác động của con người mà các loại đất trên có sự phân hoá khác nhau.
▪ Đất miền núi, chủ yếu là đất feralit. Trong điều kiện khí hậu nhiệt đới-ẩm-gió mùa, phần lớn vùng đồi núi của nước ta là đất feralit, lượng khoáng nguyên thấp, hàm lượng mùn không cao, đất chua và có màu đỏ, hoặc đỏ-vàng của ôxyt sắt thích hợp với cây công nghiệp. Ngoài ra, còn có một số loại đất khác: Đất xám phù sa cổ (rìa ĐB sông Hồng và nhiều nhất ở Đông Nam Bộ). Đất này thích hợp với cây CN và cây ăn quả. Đất đen (macgalit) phát triển trên đá ba zơ (đá ba dan, đá vôi), thường gặp ở thung lũng đá vôi (nhiều nhất ở miền Bắc), diện tích tuy không lớn nhưng rất thích hợp với các cây CN có giá trị (quế, chè, thuốc lá,...). Tốt nhất trong các loại đất đồi núi nước ta làđất ba dan ( 2,0 triệu ha), tập trung ở Tây Nguyên, một phần Đông Nam Bộ và có một vệt từ Phủ Quì (Nghệ An) kéo dài đến Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam Lộ (Quảng Trị), loại đất này rất thuận lợi cho cây CN (cao su, cà phê...) qui mô lớn.
▪ Đất ở đồng bằng, quan trọng nhất là đất phù sa 3,40 triệu ha (9,5% diện tích cả nước), đây là loại đất tốt, hàm lượng dinh dưỡng cao, có độ pH trung tính, rất thích hợp cho trồng lúa. Ngoài ra, ở các vùng đồng bằng còn có các loại đất khác như đất chua mặn, đất mặn, ven biển, đất cát, đất glây hoá trong các vùng trũng, đất lầy thụt than bùn, loại đất này ít có giá trị đối với sản xuất nông nghiệp và việc cải tạo cần nhiều vốn đầu tư.
▪ Thực trạng của việc sử dụng đất hiện nay: Qúa trình khai thác lãnh thổ cho đến nay (2008) chúng ta mới đưa vào sử dụng 80,0% diện tích đất tự nhiên (trong đó 28,45% là đất nông nghiệp). Vốn đất thuận lợi cho trồng lúa hầu như đã khai thác hết, để tận dụng tiếm năng của tự nhiên ở ĐB sông Hồng nhân dân đã tìm mọi biện pháp để tăng vụ, nâng cao hệ số sử dụng đất bằng cách thâm canh và đầu tư lao động sống để nâng cao năng suất. Phần lớn đất nông nghiệp được trồng cây hàng năm, có thể luân canh - tăng vụ với lúa (như lúa - đay, lúa - thuốc lá); phần còn lại chủ yếu trồng cây lâu năm, nhiều nhất là Tây Nguyên, Đ.Nam Bộ trên vùng đất bazan.
Vốn đất và khả năng mở rộng lại có sự khác nhau giữa các vùng lãnh thổ. Năm 2008, cả nước có trên 33,0 triệu ha đất tự nhiên; sử dụng vào SXNN 9,42 triệu ha (28,45%), đất lâm nghiệp 14,8 triệu ha (44,74 %), đất chuyên dùng và thổ cư 407,0 nghìn ha (6,56%), đất chưa sử dụng 6,7 triệu ha (20,24%). Như vậy đất chưa sử dụng còn lớn, nhưng việc mở rộng diện tích lại rất khó khăn, chủ yếu là đất dốc, thiếu nước, xói mòn và thoái hoá; Đất đồng bằng chưa sử dụng còn rất ít, chủ yếu là đất phèn, đất mặn, đất ngập úng đòi hỏi phải đầu tư lớn. Hiện nay, đất nông nghiệp (đặc biệt là đất trồng lúa) sử dụng vào mục đích khác như công nghiệp, GT, đô thị... ngày càng nhiều. Theo dự báo trong vòng 10 năm tới, đất nông nghiệp có thể mất đi mỗi năm ~ 2,8 vạn ha (trong đó đất trồng lúa ~ 1,0 vạn ha). Điều đó chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến nông nghiệp.
b. Khí hậu
- Nằm trong vòng đai nội chí tuyến Bắc bán cầu, khí hậu nước ta cơ bản là nhiệt đới. Nhưng do hình thể trải dài theo nhiều vĩ tuyến ở rìa Đông Nam lục địa châu Á, cho nên chế độ nhiệt có sự phân hóa khác nhau giữa các vùng. Từ đèo Hải Vân trở ra chịu ảnh hưởng của khối không khí lạnh cực đới (NPc) tràn xuống, hàng năm có một mùa đông lạnh và một mùa hè nóng. Từ đèo Hải Vân trở vào nóng quanh năm với một mùa khô và một mùa mưa. Tính chất nhiệt đới làm cho tổng lượng bức xạ mặt trời lớn. Chế độ mưa phong phú (1.500 - 2.000mm/năm).
- Khí hậu nước ta lại có sự phân hoá đa dạng theo chiều Bắc - Nam, theo mùa và theo độ cao. Ở miền Bắc có khí hậu nhiệt đới, ẩm, gió mùa với một mùa Đông lạnh. Ở vùng núi cao có sương giá và rét đậm. Ở miền Nam khí hậu nhiệt đới điển hình với một mùa khô và mùa mưa. Ở miền Trung là nơi giao thoa khí hậu giữa 2 miền Nam-Bắc.
▪ Ảnh hưởng của khí hậu đối với sản xuất nông nghiệp
- Trước hết là việc cung cấp lượng bức xạ lớn, nguồn ánh sáng dồi dào, nguồn nhiệt phong phú cho cây trồng phát triển quanh năm và cho năng suất cao. Độ ẩm không khí cao, lượng mưa dồi dào cho phép cây trồng có sức tái sinh mạnh mẽ, thúc đẩy nở hoa, kết trái. Cũng trong điều kiện nóng - ẩm còn giúp cho cây ngắn ngày tăng thêm từ 1 đến 2 vụ/năm; đối với cây dài ngày có thể khai thác được nhiều đợt, nhiều lứa/năm. Do các đặc trưng của khí hậu nước ta, đã tạo điều kiện để bố trí một tập đoàn cây trồng - vật nuôi đa dạng bao gồm cả nhiệt đới, cận nhiệt và ôn đới với hệ sinh thái phát triển bền vững (ở vùng núi cao 1.500m, khí hậu mát mẻ cho phép phát triển tập đoàn cây trồng-vật nuôi cận nhiệt và ôn đới; ở miền Bắc có mùa Đông lạnh là tiền đề để phát triển cây vụ đông).
- Ở mỗi vùng khí hậu lại có sự tác động khác nhau đến sản xuất nông nghiệp: Lãnh thổ trải dài 15 vĩ độ trong vùng nội chí tuyến BBC, hẹp ngang, lượng phân bố bức xạ và nhiệt - ẩm sẽ khác nhau (cả về thời gian và không gian giữa các vùng lãnh thổ), mối quan hệ giữa các khối khí cũng vậy. Vì vậy: Ở phía bắc đèo Hải Vân, tính chất chí tuyến được tăng cường thêm bởi các khối khí lạnh-khô vào mùa Đông (mỗi năm ~20 đợt). Biên độ nhiệt TB chênh lệch tới 110C, còn giữa cực trị nhiệt (tối thiểu và tối cao) lên tới 400C. Sự nhiễu loạn về thời tiết đã tạo cho nửa phần phía Bắc nước ta một hệ sinh thái cực đoan giữa 2 mùa nóng-lạnh. Ở đây thích hợp hơn cả là các cây ngắn ngày và cây ngày ngắn; đối với cây dài ngày và cây lâu năm, nên chọn cây có biên độ sinh thái rộng của vùng cận nhiệt (chè, hồi...) thì mới cho năng suất cao. Ở phía nam đèo Hải Vân: nền sinh thái ổn định hơn về thời tiết, về nhịp điệu mùa cũng như nền nhiệt-ẩm, điều này cho phép nền nông nghiệp có tính chất ổn định hơn. Sự phân hoá cây trồng ở đây chỉ đơn thuần là phân theo loại đất từ cây hàng năm đến cây lâu năm. Tuy nhiên, còn có sự khác biệt về thời tiết ở sườn Tây (giữa Tây Bắc – phía Bắc, giữa Tây Nguyên – phía Nam) trên diện tích 26% lãnh thổ lại có ý nghĩa đáng kể trong việc điều khiển thời vụ đối với cây ngắn ngày và lựa chọn cây dài ngày. Ví dụ, ở Đông Nam Bộ có một mùa khô sâu sắc tương phản với một mùa mưa cường độ cao là điều cần quan tâm đối với cây trồng lấy mủ.
▪ Trở ngại của khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa: Tính chất biến động và sự phân hoá về khí hậu đã dẫn đến các tai biến thiên nhiên như bão, lũ, khô hạn ... trong những năm gần đây lại có chiều hướng gia tăng. Độ ẩm không khí lớn cũng là điều kiện để sâu bệnh lây lan, phát triển.
c. Nguồn nước
+ Nước trên mặt: Nằm trong vùng nhiệt đới, vì vậy nước ta có nguồn nước khá dồi dào. Nhưng các hệ thống sông lớn đều bắt nguồn từ nước ngoài: S.Hồng từ Trung Quốc; S.Mã, S.Cả từ Lào; S.Cửu Long từ Mianma, nếu như ở thượng nguồn việc sử dụng không hợp lý sẽ nằm ngoài tầm kiểm soát của nước ta. Lượng mưa TB năm khá lớn càng làm cho nguồn nước trên các sông của Việt Nam thêm phong phú. Đối với sản xuất nông nghiệp, nước rất cần thiết, ông cha ta đã khẳng định “Nhất nước, nhì phân”. Với mức tiêu thụ nước trong nông nghiệp khoảng 60 tỉ m3 thì về nguyên tắc chỉ cần khai thác 10-15% trữ lượng nước là đủ cho nhu cầu sản xuất và đời sống. Mạng lưới sông ngòi phân bố rộng khắp và khá dày đặc, các hệ thống sông lớn lại bao phủ toàn bộ các vùng nông nghiệp trù phú. Ngoài việc cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp, sông ngòi còn cung cấp lượng phù sa lớn. Trong phạm vi cả nước, dòng chảy cát bùn là 300 - 400 triệu tấn/năm (hệ thống S.Hồng 130 triệu tấn; S.Cửu Long 100 triệu tấn). Về mùa lũ, lượng phù sa trên S.Hồng (tại Sơn Tây) đã lên tới 3.500 gr/cm3, mùa cạn 500 gr/cm3. Lượng cát bùn lớn đã khiến cho các đồng bằng châu thổ lấn ra biển hàng năm từ vài chục tới hàng trăm mét.
+ Nước ngầm: cũng rất phong phú, mặc dù chưa thăm dò đánh giá đầy đủ. Trữ lượng đã thăm dò khoảng 3,3 tỉ m3. Nước ngầm tập trung ở các phức hệ rời bở (ở Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long); Trong phức hệ trầm tích cácbônat (ở Đông Bắc, Tây Nguyên và BTBộ). Trong phức hệ phun trào ba dan (ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ), đã được khai thác phục vụ cho tưới tiêu và sinh hoạt.
+ Hạn chế: Tài nguyên nước phong phú, nhưng phân bố không đều cả về thời gian và không gian. Vào mùa lũ, lượng nước chiếm tới 70 - 80%, mùa kiệt chỉ 20 - 30% tổng lượng nước. Đây là một khó khăn rất lớn đối với nền nông nghiệp, để hạn chế việc thiếu và dư thừa nước phải xây dựng các công trình thuỷ lợi để chủ động tưới - tiêu nước. Ngoài ra, chất lượng nước ở một số sông, hồ nguồn nước đang bị ô nhiễm nặng. Ở các khu vực ven biển, nước mặn có chiều hướng lấn sâu vào đất liền (ở S.Hồng lấn sâu tới 20 km; S.Thái Bình 40 km; S.Tiền 50 km; S.Hậu 40 km). Điều này lại càng khó khăn hơn đối với ĐB sông Cửu Long vào mùa khô.