Tác phẩm " Truyện Lục Vân Tiên" là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của nhà thơ mù yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, trong tác phẩm nhà văn không chỉ xây dựng thành công bối cảnh truyện, nội dung đề cập sâu sắc, nhân văn mà tác giả đặc biệt thành công trong xây dựng chân dung nhân vật.
Bên cạnh nhân vật Lục Vân Tiên- nhân vật trung tâm, nòng cốt của tác phẩm thì hình ảnh Kiều Nguyệt Nga cũng được nhà thơ khắc họa một cách sinh động, chân thực, đặc biệt là thông qua đoạn trích " Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga".
Trong chuyến đi về miền Hà Khê, Kiều Nguyệt Nga đã phải đối mặt với một mối nguy hiểm lớn từ đám " bớ đảng hung đồ". Thân gái yếu ớt không thể làm gì hơn nên khi bị bọn hung đồ chặn cướp thì nàng đã rất hoảng loạn, sợ hãi. Tuy nhiên, khi được những hành động nghĩa hiệp, nhân nghĩa của Lục Vân Tiên cứu giúp thì những lời nói, hành động sau đó của Kiều Nguyệt Nga đã bộc lộ được phẩm chất đoan trang, dịu dàng, có học thức của một tiểu thư khuê các:
"Thưa ràng: "Tôi thiệt người ngay"
Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ
Trong xe chật hẹp khôn phô
Cúi đầu trăm lạy cứu cô tôi cùng"
Những lời nói Kiều Nguyệt Nga đáp lại Lục Vân Tiên ta có thể thấy nàng là một người có học thức, lời ăn tiếng nói đều rất rõ ràng, dịu dàng, mực thước kể lể sự tình của mình " Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ".
" Thưa ràng" là cách nói đầy chuẩn mực, tôn trọng thể hiện được cung cách của một con người có gia giáo, có học thức.Nàng cũng là người biết điều phải trái, khi chứng kiến cảnh Lục Vân Tiên " tả đột hữu xung" cứu mình thì nàng đã mang ơn và có hành động để thể hiện sự biết ơn ấy của mình:
" Cúi đầu trăm lạy cứu cô tôi cùng"
Nguyệt Nga muốn thể hiện sự biết ơn của mình đối với những hành động trượng nghĩa của Vân Tiên, nàng muốn "cúi đầu" để cảm tạ ơn sâu ấy. Đây là hành động được xem là rất " phải đạo" cũng thể hiện được những suy nghĩ sâu sắc, chu đáo của nàng.
Qua những đoạn đối đáp với Lục Vân Tiên,ta không chỉ thấy Kiều Nguyệt Nga là người dịu dàng,lễ phép, chuẩn mực mà còn thấy đây là một cô gái rất có hiếu:
"Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê
Sai quân đem bức thư về
Rước tôi qua đó tiện bề nghi gia
Làm con đâu dám cãi cha
Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành"
Ta thấy nàng là một người con gái hết mực đoan trang, dịu dàng; một người con có hiếu, luôn vâng lời cha " làm con đâu dám cãi cha". Và để làm theo mong muốn của cha là "tiện bề nghi gia" thì nàng cũng ngại thân con gái phải ngàn dặm xa xôi mà " Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành".Như vậy, ta có thể thấy, hình tượng Kiều Nguyệt Nga có thể coi là một hình mẫu lí tưởng của người con gái trong xã hội phong kiến xưa, nết na, hiền thục, có học thức và cũng là một người con có hiếu.
"Trước xe quân tử tạm ngồi
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa
Chút tôi liễu yếu đào thơ
Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần
Hà Khê qua đó cũng gần
Xin theo cùng thiếp đền ơn cho chàng"
Trước ơn cứu mạng của Lục Vân Tiên, Nguyệt Nga tha thiết muốn được đền ơn và tỏ mong muốn mời Vân Tiên về nhà cùng mình để tiện bề báo đáp "Xin theo cùng thiếp đền ơn cho chàng". Qua lời nói của Nguyệt Nga ta cũng thấy một con người đầy chính nghĩa, đề cao tư tưởng "đền ơn, tạ nghĩa "đối với người "ân nhân" của mình.
Và đây cũng là lần thứ hai Kiều Nguyệt Nga muốn quỳ lạy tạ ơn đối với Vân Tiên "Xin cho tiện thiếp lạy rồi mới thưa".Nếu lần đầu tiên nàng tỏ ý muốn lạy tạ ơn thì có thể coi là phép khách sáo, lịch sự.Song đây là lần thứ hai nàng bày tỏ mong muốn này, điều đó cũng chứng tỏ được tấm lòng chân thành, sâu sắc của nàng.
Vốn là một tiểu thư đài các, nhưng Nguyệt Nga tự xưng mình là "tiện thiếp", thể hiện sự chuẩn mực, nề nếp, cũng thể hiện được sự khiêm nhường, từ tốn.
Cũng trong cuộc đối đáp với Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga thể hiện được tài năng văn thơ hết mực tài hoa, tinh tế.
"Nguyệt Nga ứng tiếng xin hầu
Xuống tay liền tả tám câu năm vần"
Có thể thấy người con gái này " tài sắc vẹn toàn", đoan trang thục nữ những cũng đầy tài hoa, học thức tinh thông.
Bằng những ngôn ngữ giản dị mà mộc mạc, Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng lên bức chân dung người thiếu nữ Kiều Nguyệt Nga đầy chân thực, gần gũi với những nét đẹp mang đậm dấu ấn của người phụ nữ Việt Nam: thùy mị, đoan trang, hiếu thảo, trọng ân nghĩa.