Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Qua các tác phẩm đã học trong chương trình ngữ văn 8, hãy chứng minh rằng văn học của dân tộc ta luôn đề cao tình yêu thương và phê phán những kẻ bất nhân bất nghĩa

(văn nghị luận có sử dụng yếu tố tự sự miêu tả biểu cảm)
giúp mình với
2 trả lời
Hỏi chi tiết
1.407
1
1
❤白猫( shiro neko )❤
15/05/2019 19:52:13
Từ xa xưa, con người đã biết phản ánh tâm tư, tình cảm của mình qua văn học truyền miệng hay trên những tấm tre, mảnh giấy. Văn học đã trở thành người bạn thân thiết, gắn bó với con người. Nó là sợi dây liên kết vô hình khiến con người xích” lại gần nhau hơn. Văn học giúp con người sống với nhau bằng tình cảm đẹp đẽ, biết sống bằng sự chia sẻ, cảm thông. Vì thế, ngay từ khi sinh ra, khi được truyền hơi thở ấm áp của bà, của mẹ qua những câu hát ru thì ta đã cảm nhận được rằng: Văn học luôn ca ngợi tình yêu thương giữa người và người”.
Văn học là một bộ môn Nghệ thuận quan trọng trong cuộc sống tinh thần mỗi con người. Là công cụ để bày tỏ cảm xúc hay tình cảm của mình bằng ngôn ngữ, giúp con người thể hiện rõ từng khung bậc cảm xúc của mình. Những tác phẩm văn học được làm nên từ chất liệu cuộc sống, thể hiện rõ tình cảm của cuộc sống hiện thực. Vì thế, văn học còn là chiếc chìa khóa vàng mở ra lâu đài nhân ái và tình thương, hướng chúng ta đến chân - thiện - mĩ”. Tình yêu thương con người làm nên sự hấp dẫn của văn chương, ngược lại, văn chương có nhiệm vụ bồi đắp tình yêu thương giữa người với người.
Nhà phê bình văn học Nguyễn Văn Siêu đã từng nói: Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ. Loại đáng thờ là loại chuyên chú đến con người. Còn loại không đáng thờ chỉ chuyên chú ở văn chương”. Thật vậy, văn học là nhân học” (Maksim Gorky), nó dành tất cả những gì tốt đẹp nhất cho con người, làm thay đổi cả một thế giới giả dối và tàn ác, ca ngợi sự công bình, làm người gần người hơn” (Thạch Lam). Tóm lại, nó biểu hiện cho tất cả những gì gọi là tình cảm nhân loại, sự xót xa, đồng cảm hay lòng nhân ái, mang cái dư vị của cuộc sống thực tại.
Trong văn học chân chính - thứ được gọi là loại văn chương đáng thờ” kia được chia ra làm nhiều cung bậc cảm xúc. Nó bộc lộ sự thương cảm xót xa, sâu sắc đối với những mảnh đời, thân phận bất hạnh, vẻ đẹp nhân cách con người, ... Nhưng nổi bật trong đó vẫn là tình cảm gia đình, làng xóm ; tình yêu thiên nhận, quê hương, đất nước hay sự đồng cảm, xót xa trước mảnh đời đau xót.
Tiên phong đi đầu vẫn là tình cảm gia đình, làng xóm. Tình mẫu tử, phụ tử là cao quý hơn cả. Ta vẫn còn nhớ mãi hình ảnh người mẹ nhân hậu, âu yếm đưa con đến trường qua tác phẩm Tôi đi học” (Thanh Tịnh), đã cho ta thấy sự hồn nhiên, ngây thơ của người con và tình yêu thương con hết mực của người mẹ. Và rồi hình ảnh cậu bé Hồng trong hồi kí Những ngày thơ ấu” (Nguyên Hồng” thì sao? Hoàn cảnh đáng thương của gia đình bé Hồng những xen lẫn vào đó là niềm khao khát cháy bỏng, dữ dội. Dường như, thứ tình cảm cao quý ấy cứ gắn chặt” với nhau, như thứ keo rắn chắc, không thế nào gỡ bỏ được. Cũng gần như vậy, tình phụ tử thiêng liêng của lão Hạc trong tác phẩm cùng tên cũng được thể hiện rõ. Nam Cao đã nhìn thấu rõ trái tim nồng ấm mà lão Hạc dành tặng cho con, hi sinh vì con để giữ đạo làm cha. Hay tình cảm vợ chồng chị Dậu thì sao? Chị luôn ân cần, chăm sóc chồng chu đáo, quên mình bảo vệ chồng trước bọn quan lại gian trá. Hình tượng người phụ nữ đẹp đẽ đã được thể hiện qua ngòi bút của Ngô Tất Tố. Tóm lại, văn học đã làm nên một thứ tình cảm thiêng liêng qua nét vẽ tài tình của các nhà văn. Nó đã làm sáng tỏ thế nào là thứ khí giới thang tao” của văn chương. Nhà thơ Chế Lan Viên đã có câu thơ về tình cảm gia đình rất hay đã phần nào khẳng định được điều đó:
Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi suốt đời lòng mẹ vẫn theo con”
Hay:
Thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn”
Không chỉ trong gia đình mà ngay cả giữ những con người không có máu mủ, những văn học vẫn đề cập đến, đó là tình yêu thương, đùm bọc lẫn nhau giữa người với người trong xã hội. Và trong văn học truyền miệng đã có câu:
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tùy rằng khác giống nhưng chung một giàn”
Dân gian đã đề cao con người, mượn đề tài bầu - bí” để nhắc nhở chúng ta về mối quan hệ trong xã hội. Cũng như bà lão hàng xóm cạnh gia đình chị Dậu, đã ái ngại” mạng bát gạo sang giúp đỡ gia đình chị trong hoàn cảnh khó khăn. Hay nhân vật ông Giáo - hàng xóm lão Hạc - là tầng lớp tri thức nghèo nhưng lại mang một trái tim đồng cảm vô bờ bến. Chính ông Giáo đã xoa dịu nỗi đau của Lão Hạc, giúp đỡ về mặt tinh thần trong mọi hoàn cảnh. Và chính trong những tác phẩm văn học nước ngoài, cụ Bơ-men ( Chiếc là cuối cùng” - O’Hen ri) đã cứu Giôn-xi từ cõi chết trở về. Đâu chỉ có văn học Việt Nam mà toán thế giới hay nói cách khác, mọi nơi, mọi thời điểm, nơi nào có văn học là có tình thương, thắp sáng trong bóng tối, sưởi ấm trong lạnh giá. Và đó chính là phương châm tồn tại mãi mãi của văn học chân chính.
Văn học không chỉ ca ngợi tình thương sâu đậm trong lòng mỗi người, không chỉ khêu gợi tình cảm thực tại mà còn khích lệ tình cảm tiềm tàng ẩn chưa trong mỗi con người, phê phán những tấm lòng vô cảm rồi chính cái vô cảm đó sẽ phần nào biểu lộ ra thứ tình cảm chân chính:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy trí nhân để thay cường bạo”
( Nước Đại Việt Ta” - Nguyễn Trãi)
Bên cạnh những thứ tình cảm khích lệ về mặt tinh thần đó thì tình yêu quê hương, đất nước là thứ tình cảm chân chính thể hiện bằng hành động thực tế. Lòng yêu quê hương, đất nước đã thể hiện sâu sắc qua Hịch tướng sĩ” (Trần Quốc Tuấn). Ông đã thể hiện tình yêu mãnh liệt của mình đồng thời khích lệ tướng sĩ tấm lòng yêu nước mà bản thân họ đã có sẵn”. Cũng vậy, Nước Đại Việt ta” (Nguyễn Trãi) là bước nhảy vọt thời gian” khẳng định những yếu tố độc lập đề cao sức mạnh dân tộc, đề cao, ca ngợi đi đôi với lên án, phê phán. Đó là những bằng chứng phê phán hành động sai trái nhưng trong Cô bé bán diêm” (An-đéc-xen) lại phê phán chính trái tim được coi là nồng ấm: của con người. Nhà văn An-đéc-xen đã lên án gay gắt thái độ sống thờ ơ của những con người trong cùng một xã hội. Phải chăng, sau cái chết của em bé bán diêm, những người dân nơi đây lại có cách nhìn khác về bản thân. Tóm lại, văn chương ra đời không chỉ có vậy àm còn với mục đích khơi gợi những gì chưa ai khơi, sáng tạo những gì chưa ai có” (Nam Cao), thắp sáng lên tia sáng hi vọng, sưởi ấm trái tim băng giá của những con người chưa biết vẻ đẹp nhân cách tâm hồn tiềm tàng của mình.
Văn học trau dồi tình yêu con người, gợi cho con người cảm xúc. Cảm xúc con người như viên kim cương” thô thiển nhưng được mài giũa, viên kim cương thô thiển ấy sẽ trở thành dá quý đắt giá”. Cũng như trái tim con người vậy, hãy tự biết tan chảy” lớp băng lạng giá kia để trở thành những con người biết đồng cảm, chia sẻ. Như văn hào M.Gorki đã nói: Xét đến cùng, ý nghĩa thực sự của văn học là nhân đạo hóa con người”. Thật vậy, quả là loại văn chương đáng thờ”, đáng trưng bày” cho cả nhân loại chiêm ngưỡng.
Qua những tác phẩm văn học trên, ta mới cỏm nhận được rằng, văn học luôn luôn cả ngợi những tình yêu thương cao cả, làm người gần người hơn. Chúng hòa quện vào nhau tạo nện một bức tranh tươi sáng, giúp con người phát triển theo một định hướng chung để ngày một hoàn thiện như mục đích của văn học: luôn hướng con người tới chân - thiện - mĩ”. Và đúng như nhà thơ Tố Hữu đã viết:
Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người yêu người sống để yêu nhau”

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
1
Quỳnh Anh Đỗ
16/05/2019 07:26:31
Các tác phẩm văn học giai đoạn 1930 -1945 đã phê phán gay gắt những kẻ phi nhân tính luôn dồn đuổi, tàn phá cuộc sống và tâm hồn người dân. Nhưng cũng chính trong cái xã hội bất lương và tàn nhẫn ấy đã có những con người biết vượt lên sự hành hạ về thể xác và tâm hồn để”thương người như thể thương thân”. Và văn học cũng không quên ngợi ca những con người như vậy.
Lòng nhân ái luôn là nét đẹp truyền thống trong tâm hồn người Việt Nam bao đời nay. Đó là tình cảm xóm giềng – tình cảm của những con người không cùng chung huyết thống nhưng vẫn luôn sát vai bên nhau. Như nhân vật ông giáo trong “Lão Hạc” của Nam Cao, một con người biết đồng cam cộng khổ, chia sẻ với lão Hạc mọi khổ đau. Ông giáo đã cảm thông với lão Hạc biết chừng nào thì mới có thể ngồi nghe hết câu chuyện rề rà và vòng vo do lão kể, để rồi hiểu ra tình cảnh đáng thương của lão. Ông luôn sẵn sàng lắng nghe lão kể mọi nỗi bất hạnh, sẵn sàng đảm nhận bất cứ việc nào mà lão nhờ. Ông giáo đúng là hiện thân của lòng thương người, biết tìm hiểu và trân trọng những phẩm chất tốt đẹp ở người khác. Qua nhân vật ông giáo, Nam Cao đã bộc lộ quan điểm về cách nhìn người : ở mỗi con người đều có một vẻ đẹp nhân cách đáng nâng niu, ca ngợi.
Tình cảm làng xóm không chỉ hiện lênqua ngòi bút của Nam Cao mà còn được Ngô Tất Tố khai thác trong tiểu thuyết”Tắt đèn”. Trong hoàn cảnh vô cùng đau khổ : anh Dậu bị trả về, rũ rượinhư một cái xác, chị Dậu đã vô cùng hoảng sợ, đau đớn. Trong lúc này, vợ chồngchị Dậu còn có thể nương nhờ vào ai ngoài nhũng người hàng xóm tốt bụng. Maythay, nhờ bà lão hàng xóm cứu giúp cho bát cháo, anh Dậu đã dần dần hồi phục.Chỉ một bát cháo mà là cả một tấm lòng. Ta hiểu, chẳng phải ngẫu nhiên mà người xưa có câu “bán anh em xa, mua láng giềng gần”. Đó chẳng phải cũng là để ngợi ca tình cảm của những con người sống gần gũi,sớm tối có nhau đó sao ?
Lòng nhân ái mà văn học nhắc đến còn là tình cảm gia đình sâu sắc, gắn bó. Trước tiên, phải kể đến tình vợ chồng thân thiết, mà điển hình là nhân vật chị Dậu.
Chị là người thương chồng, hết mình vì chồng. Khi anh đau yếu, chị tận tình chăm sóc. Những cử chỉ thật nhẹ nhàng, hiền dịu như tất cả tình thương chị dành cho anh. Chị thật sự là một người vợ đảm đang, yêu chồng chân thành, tha thiết. Rồi trước bọn cai lệ độc ác, bất nhân, chị Dậu cố gắng chống chọi, âu cũng là để bảo vệ chồng. Con người chị Dậu là thế : bình thường thì hiền hậu, nhu mì, nhưng ai đã hành, hạ chồng chị thì chị quyết không để yên đâu. Đó cũng chính là vẻ đẹp của một nông dân giàu tình thương, kiên quyết chống lại bạo lực, cường quyền.
Tình cảm máu mủ ruột rà cũng là đề tài được các tác giả quan tâm. Lão Hạc một người cha rất mực thương con. Tuổi già cô độc, ốm đau vẫn phải một thân một mình, rồi còn phải đi làm thuê kiếm sống nhưng lão vẫn cương quyết không tiêu lạm vào tiền của thằng con trai. Để giữ trọn vẹn tài sản cho con, lão đã phải bán con chó vàng – người bạn thân thiết của lão, phải ăn củ chuối, quả sung cho qua ngày. Rồi thật là đau khổ, đau khổ đến tột cùng khi lão phải tìm đến cái chết, một cái chết thật khốc liệt nhưng nhân cách đã được bảo toàn. Thật là “chết trong còn hơn sống đục”. Lão Hạc là hiện thân của một nhân cách cao đẹp.
Có những người cha đã vì con mà sẵn sàng hi sinh, thìcũng có những đứa con hiếu thảo vì cha mẹ mà chịu bao khổ cực. Nhân vật cái Tí trong “Tắt đèn” là một em bé như thế. Tuy số phận em cay đắng : nhà nghèo, phải chăm sóc các em và đau khổ nhất là bị bán vào nhà Nghị Quế nhưng cái Tí luôn bộc lộ những phẩm chất đáng quý. Biết cha mẹ vất vả, em đảm đang,tháo vát chăm sóc các em như một người mẹ. Đến khi mẹ về, em hăm hở ra đón, mời mẹ ăn khoai. Và đáng thương nhất là Tí chấp nhận dấn thân vào cuộc đời nô lệ để đổi lấy sự tự do cho cha. Sự hi sinh lớn lao đó đã thể hiện một tình yêu thương sâu sắc của đứa con hiếu thảo dành cho cha mẹ. Lòng hiếu thảo của Tí làm ta nhớ đến nhân vật “em Bé” trong truyện ngắn “Mẹ vắng nhà” của Nguyễn Đình Thi. Hay như bé Hồng trong truyện “Những ngày thơ ấu” cửa Nguyên Hồng, em đã bất chấp những lời phỉ báng của người cô để mà bênh vực mẹ. Những nhân vật trong văn học cũng chính là hình ảnh của thiếu nhi Việt Nam trong xã hội cũ, tuy khổ đau nhưng vẫn giữ trọn bổn phận làm con.
Bên cạnh giá trị nhân đạo cao cả, các tác phẩm còn mang tính hiện thực sâu sắc. Các tác giả đã phê phán gay gắt những kẻ bất nhân,thờ ơ trước người gặp nạn. Cái thái độ có thể gọi chung bằng từ “độ các” đó đã bị phê phán theo đủ các cung bậc trong các bài thơ và bài văn.Có thể kể đến tiếng cười nhạo báng của nhân dân trong truyện “Thạch Sanh”. Hình ảnh Lí Thông được dựng nên với những tội ác tày trời. Hắn đã nhiều lần lừa Thạch Sanh – người anh em kết nghĩa chỉ vì tiền tài và danh vọng. Ttừ bao đời nay vẫn thế, những kẻ sống gian thì chẳng bao giờ có được kết quả tốt đẹp. Lí Thông chết đi bị biến thành bọ hung, một con vật bẩn thỉu và hạ đẳng trong xã hội. Sự trừng phạt Lí Thông cũng là để lên án tội ác hắn đã làm trong suốt cuộc đời.
Nhưng chỉ một mình Lí Thông kia sao so sánh được với cả một chế độ thực dân Pháp đã hành hạ dân ta trong bao nhiêu năm. Nguyễn Ái Quốc đã lên án chúng gay gắt biết chừng nào trong “Bản án chế độ thực dân Pháp”. Thực dân Pháp đã gây ra những tội lỗi tày trời, đẩy bao người dân vô tội vào cảnh khốn cùng, khổ cực. Đó là sự tàn sát hết sức dã man, tàn nhẫn. Bỗng dưng, những người bản xứ phải rời bổ gia đình, quê hương để vượt qua những chuyến đi dài, để được”hưởng” cái chết nơi đất khách quê người. Vậy mà thực dân Pháp gọi cái đó là công lí và tự do sao ? Phải chăng đó chỉ là lớp vỏ bao bọc cho tộil ỗi và sự tàn nhẫn của thực dân Pháp ? Nhưng dưới cái danh hiệu tối cao”chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do” là những cảnh tang thương đau xót biết chừng nào. Những con người đã ra đi, hoặc chết trên các chiến trường châu Âu, hoặc tử nạn ngay trong lúc vượt biển… Tóm lại, họ đều đã hi sinh tính mạng mình cho những cuộc chiến vô nghĩa của thực dân Pháp. Rồi những người may mắn được ở lại hậu phương cũng đã bị vắt kiệt sức lao động trong các xưởng thuốc súng. Vậy thì kết cục của họ cũng đâu khác gì những con người đã bị bắt đi chiến đấu. Tám vạn sinh mạng đã bổ ra để phục vụ chiến tranh. Thực dân Pháp quả đã quá coi rẻ tính mạng và xương máu người dân.
Chẳng lẽ những người bản xứ ấy tự nguyện đi vào chỗ chết sao ? Họ đã bị ép buộc đi lính theo một chế độ hết sức tàn ác. Chúng buộc họ phải chọn một trong hai con đường : hoặc phải đi lính,hoặc phải bỏ tiền để đổi lấy sự tự do. Cho lựa chọn đấy mà thực ra cũng chính là ép buộc. Thử hỏi những người dân nghèo biết lấy đâu ra tiền để mua lấy cuộc sống yên ổn mà đáng ra họ phải được hưởng ? Họ đành phải thuận theo số phận hoặc tìm cách làm cho mình mắc bệnh nặng nhất. Thật đáng thương cho những con người ấy ! Vậy mà, tội ác của thực dân Pháp không chỉ dừng lại ở việc bóc lột sức và mạng người. Chúng còn nhẫn tâm lấy hết mọi của cải của họ”để ghi nhớ công lao người lính An-nam, chẳng phải người ta đã lột hết tất cả của cải của họ…”. Thực dân Pháp đền đáp lại những cống hiến to lớn của người dân như vậy sao ? Chúng chính là nguyên nhân khiến bao người dân phải đau khổ. Thử hỏi, lương tâm chúng để đâu ? Bản tố cáo của Nguyễn Ái Quốc như một lời buộc tội đanh thép đối với thực dân Pháp.
Những tấm gương cao cả về lòng nhân ái, những tội ác to lớn được gây ra bởi sự nhẫn tâm, tất cả đã được phản ánh trong văn học. Văn học chính là yếu tố quan trọng trong việc lưu giữ lịch sử của thế hệ trước cho đời sau.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo