LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Trình bày hiểu biết của em về nghệ thuật tả người và tả cảnh được coi là nét đặc sắc của Truyện Kiều

4 trả lời
Hỏi chi tiết
3.208
4
1
Deano
12/10/2017 19:23:49

Từ một tác phẩm bình thường của Thanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn Du, với thiên tài nghệ thuật của mình, đã tạo nên “Truyện Kiều” bất hủ, niềm tự hào của văn học Việt Nam. Trong những đặc sắc về nghệ thuật của Nguyễn Du, có nghệ thuật tả người. Đoạn Nguyễn Du tả tài sắc chị em Thúy Kiều có thể được coi là một đoạn thơ tiêu biểu của nghệ thuật ấy.

Chỗ tài tình của Nguyễn Du là, khi ông tả người, tả vẻ ngoài của con người nhưng chính là ông tả bản chất con người với những đặc sắc bên trong của nó và dự báo cả số phận mai sau của họ. Tả chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du bắt đầu từ cái rất chung, giới thiệu những nét chung nhất của họ:

Đầu lòng hai ả tố nga

Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân,

Mai cốt cách, tuyết tinh thần

Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.

Cả hai chị em, Thúy Kiều và Thúy Vân đều đẹp, cái đẹp trọn vẹn của vẻ đẹp theo lí tưởng của xã hội và thời đại. Họ mang cái cốt cách thanh cao của cây mai và cái tinh thần trắng trong của tuyêt. Tuy thế, dẫu “mười phân vẹn mười”, cái đẹp của hai chị em vẫn là “mỗi người một vẻ”. Chính nhà thơ đã chuẩn bị miêu tả riêng, so sánh và phân biệt cho ra “mỗi người một vẻ” ấy. Nhà thơ bắt đầu từ Thúy Vân:

Vân xem trang trọng khác vời

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang

Hoa cười ngọc thốt đoan trang

Mấy thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

Qua đoạn trên, ta không thể biết được một cách tỉ mỉ, cụ thể về nhan sắc Thúy Vân nhưng ta lại biết được nhan sắc ấy thật tuyệt trần. Tất cả đều trọn vẹn, tất cả đều đạt tới mức cao nhất yêu cầu của xã hội về nhan sắc. Đó là một vẻ đẹp mà với những từ “trang trọng”, “đầy đặn”, “nở nang”, “đoan trang”, “mây thua”, “tuyết nhường”, luôn luôn tạo cho người xung quanh một tình cảm trân trọng, yêu mến, độ lượng. Đó là một vẻ đẹp dễ dàng được xa hội công nhận.

Tả Thúy Vân chỉ bốn dòng thế là đủ, Nguyễn Du chuyển sang tả Thúy Kiều:

Kiều càng sắc sảo mặn mà,

So bề tài sắc lại là phần hơn:

Làm thu thuỷ, nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh

Một hai nghiêng nước nghiêng thành

Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.

Hóa ra, khi tả Thúy Vân, Nguyễn Du đã bắt đầu tả Thúy Kiều, Thúy Vân trở thành điểm tựa để Nguyễn Du đặt đòn bẩy mà nâng Thúy Kiều lên chỗ tuyệt vời. Kiều có tất cả những gì Thúy Vân có nhưng ở mức độ sắc sảo hơn, mặn mà hơn. Tả Thúy Vân, nhà thơ chỉ nói đến sắc. Thúy Kiều thì “tài sắc”, và cả “tài” lẫn “sắc” đều “lại là phần hơn”.

Tả Thúy Kiều, Nguyễn Du cũng dùng phương pháp ước lệ, với những thành ngữ quen thuộc “làn thu thuỷ” để chỉ đôi mắt, “nét xuân sơn” để chỉ đôi lông mày; tuy thế với nhưng từ ngữ “ghen”, “hờn” gắn cho tạo vật, nhà thơ đã cho thấy nhan sắc Thuý Kiều là nhan sắc độc đáo, kì lạ, vượt lên trên sự bình thường. Đó là nhan sắc hiếm có trên đời, như một của quý ít khi xuất hiện, thường được tôn sùng và cũng thường bị đố kị, lúc nào cũng gây ra sóng gió cho mình.

Một hai nghiêng nước nghiêng thành

Sắc đành đòi một, tài dành họa hai.

Đã giới thiệu tài sắc hơn đời của Thúy Kiều, đã tả sắc của nàng như thế, Nguyễn Du tiếp tục bằng việc tả tài của nàng:

Thông minh vốn sẵn tính trời,

Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm,

Cung thương, lầu bậc ngũ âm

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương,

Khúc nhà tay tựa nên chương

Một thiên “bạc mệnh” lại càng não nhân.

Tài của Kiều là cái tài toàn diện của nghề phong lưu: cầm, kì, thi, họa, mà tài nào cũng ở mức tuyệt đỉnh, trọn vẹn. sắc đã hiếm có, tài lại hiếm có hơn. Thúy Kiều đúng là người hiếm ở đời. Người hiếm có như thế thì có thể gặp tột cùng hanh phúc, hoặc có thể tột cùng đau khổ. Mà Kiều thì chắc là sẽ đau khổ bởi vì “hoa ghen” với nàng, “liễu hờn” với nàng kia mà! Tả tài sắc Thúy Kiều, thật ra Nguyễn Du đã dự báo cho thân phận của nàng.

Thúy Kiều và Thúy Vân đúng là “mười phân vẹn người” nhưng lại “mỗi người một vẻ”. Đảo lộn trình tự, nói về em trước rồi mới nói đến chị, Nguyễn Du đã tập trung vào nhân vật chính của tác phẩm. Không đi vào chi tiết, Nguyễn Du chỉ nói lên cái thần của nhân vật bằng những nét tiêu biểu nhất, đó chính là điều đặc sắc trong nghệ thuật tả người của Nguyễn Du.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
1
Quỳnh Anh Đỗ
12/10/2017 19:42:50

Xanh Bơ-vo đã nói, đại ý : nếu chọn nhà văn tiêu biểu cho từng nước, nước Anh sẽ không ngần ngại chọn Secxpia, nước Pháp – Molie và nước Đức – Gớt. Còn tôi, nếu có quyền được chọn, tôi sẽ không đắn đo nêu tên Nguyễn Du cùng kiệt tác Đoạn trường tân thanh. Đó là một trong những đỉnh cao chói ngời của nền văn học Việt Nam, nền văn học thế giới, làm nên giá trị bất hủ của tác phẩm này có nhiều nguyên nhân song một điều không ai có thể phủ nhận là tài nghệ niêu tả và khắc họa tính cách nhân vật sắc sảo đến mức các nhà viết tiểu thuyết hiện đại cũng khó lòng theo kịp Nguyễn Du.

Trước hết nói về nghệ thuật miêu tả của cụ Tiên Điền vì ngoại hình một con người bao giờ cũng là cái đập vào mắt, đến với nhận thức chúng ta đầu tiên. Một điều rất dễ nhận thấy là sự khác biệt trong cách miêu tả nhân vật chính điện và nhân vật phản diện của Nguyễn Du. Trong quan niệm của Tố Như, một con người cũng như bao nho sĩ đương thời chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Trung Quốc, các nhân vật mang trong mình đỉnh cao của chân, thiện, mỹ đều được khắc họa bằng hàng loạt điển cố với bút pháp ước lệ. Với chị em Kiều là "Mai cốt cách, tuyết tinh thần", Kim Trọng phải là :

Tuyết in sắc ngựa câu giòn Cỏ phai màu áo nhuộm non da trời
Còn Từ Hải, người anh hùng cái thế ? Ta lại bắt gặp "Râu hùm, hàm én, mày ngài, vai năm tấc rộng, thân mười thước cao", những tiêu chuẩn, những kích thước điển hình của một trang hảo hán. Ngược lại, ở những nhân vật phản diện, bút pháp của Nguyễn Du lại rất thực tế, sinh động đến mức trần trụi. Mã Giám Sinh là con buôn và cũng là gã trai lơ, hẳn cần vẻ ngoài chải chuốt, diêm dúa ư ? Thì đây "Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao". Còn Sở Khanh, kẻ "bạc tình nổi tiếng lầu xanh", Nguyễn Du khoác cho nó cái "hình dung chải chuốt áo khăn dịu dàng" để đi quyến rũ những "cành phù dung". Tuy khác nhau đó nhưng Nguyễn Du vẫn khắc họa rất điển hình, chọn lọc chi tiết đến mức gắt gao để làm nổi bật lên dáng vẻ của từng hạng người, Tú Bà, mụ "gái làng chơi đã về già hết duyên", để lại, không sao xóa nổi nước da "nhờn nhợt" xanh bủng beo của mụ. Và Tú Bà, chủ nhà chứa, quen "ăn gì" nếu không phải là những đồng tiền nhầy nhụa, ăn chèn của chị em những đêm tiếp khách, ních chặt căng đến "đẫy đã làm sao". Hoạn Bà là một tể tướng phu nhân được Nguyễn Du thắp sáp cho mụ, biến mụ thành một pho tượng bệ vệ, quăng bịch xuống cái "giường thất bảo"giữa cái nhà "ban ngày sáp thắp" kia.

Đặc biệt, làm cho bạn đọc bao thế hệ không ngớt khâm phục là cái tài tả người mà dường như dự báo cho cả cuộc đời nhân vật ở Nguyễn Du. Khi tả Thúy Vân :

Khuôn trang đầy đặn, nét ngài nở nang ..... Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da
Và khi tả Thúy Kiều đẹp đến mức "Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh", Nguyễn Du đều có dụng ý cả. Trên thì "thua" "nhường", sắc trung chỉ hiền, dưới lại "ghen", "hờn" sắc trung chỉ thánh, tả sắc mà đến bậc thánh hiền thỉ quả là Nguyễn Du đã khổ tâm hun đúc, chọn chữ để tả ra cho rành. Ai dã nhận xét như vậy, quả là chí lý. Chẳng trách sau này, khi cảnh nhà nguy biến, trong khi Kiều "Dầu trong trăng đĩa lệ tràn thắm khăn" bởi "nỗi mình", "nỗi nhà" thì Vân vẫn ngon lành giấc xuân, trong khi Kiều lênh đênh trong bể đoạn trường thì Vân vãn đề huề sống cùng Kim Trọng. Tả người mà đến mức đó hỏi ai hơn được Nguyễn Du ?

"Văn" đông càng lắc càng đầy ! Đi sang góc độ khắc họa tính cách nhân vật mới thấy hết "tay tiên" của Nguyễn Du "gió táp mưa sa" đến mức nào. Đi vào tính cách, vào nội tâm con người đâu phải chuyện đơn giản nhưng Nguyễn Du đã vượt qua thử thách đó tưởng chứng rất nhẹ nhàng, đơn giản.

Tả tính cách mà giới thiệu thẳng như khi tả Hoạn Thư:

Ở ăn thì nết cũng hay Nói điều ràng buộc thì tay cũng già
Không nói làm gì, và nếu chỉ có thế thì Truyện Kiều cũng không còn sống được với chúng ta hôm nay. Chúng ta hãy cùng khám phá cội nguồn làm cho văn Kiều còn dào dạt tuôn chảy đến muôn đời.

Trước hết mượn ngay bút pháp miêu tả Nguyễn Du đã khắc họa rất thành công tính cách nhân vật. Nhà phê bình Xuân Diệu đã từng rất tâm đắc với chữ "thốt" trong bức chân dung nàng Vân :

Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Quả nếu thay "thốt" bằng "nói" thì thành ra Vân cười cười nói nói suốt ngày, còn đâu vẻ "đoan trang" nữa. Còn "thốt" là thỉnh thoảng mới nói, đúng lúc đó. Có thế mới thấy cái dụng công tột bực của cụ Tiên Điền. Còn Sở Khanh, đàn ông mà "hình dung chải chuốt áo khăn dịu dàng". Mã GiamSinh, đấng mày râu gì mà "mày râu nhẵn nhụi". Theo cái nhẵn nhụi ấy, theo cái chải chuốt của lụa là mà cũng tuột luôn đi mất cái tính cách của "đấng trượng phu", chỉ còn lại một gã lái buôn, một kẻ bạc tình.

Cũng chỉ cần vài hành động điển hình thôi, Nguyễn Du cũng đã giúp người đọc đi guốc vào tim gan nhân vật. Với hành động đầy mờ ám : "Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào", cso khó gì không đoán được tâm địa phản trắc đầy âm mưu đen tối của Sở Khanh. Còn Kiều, nếu có đi theo hắn cũng chỉ là "cũng liều nhắm mắt đưa chân" trong cơn tuyệt vọng cùng cực của cô tiểu thư lá ngọc cành vàng thoắt bị xã hội vứt xuống bùn đen mà thôi. Rõ nhất là ở Từ Hải. Dường như sự xuất hiện của con người này luôn luôn đột ngột, bất ngờ :

Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi
Sau này, trong lời kể của viện lại họ Đô về Từ Hải cho chàng Kim, ông cũng dùng từ "bỗng". Từ Hải là thế đó ! Chàng đến, chàng đi đột ngột như cơn gió lốc, quét hết mọi dơ bẩn, đưa lại hạnh phúc cho con người. Chàng như ánh sao băng vụt lóe sáng, xé rách màn đêm đột ngột, đầy ngỡ ngàng, ấm áp, hân hoan. "Bỗng đâu"văn Truyện Kiều bừng sáng sau bao nhiêu "cung gió thảm mưa sầu".

Ngôn ngữ cũng được Nguyễn Du tận dụng tối đa để làm bật lên tính cách nhân vật. Chỉ đọc những dòng "ghi âm" lời Hoạn Thư :

Làm cho cho mệt cho mê Làm cho đau đớn ê chề cho coi.
Cũng phải sởn gai ốc vì cái giọng đay nghiến như muốn gí đầu người ta xuống , róc thịt người ta ra của mụ. Và giọng lưỡi Tú Bà :

Màu hồ đã mất đi rồi Thôi thôi vốn liêng đi đời nhà ma.
Những bài học vỡ lòng trong làng chơi được mụ truyền cho Kiều đã khiến Xuân Diệu cảm thấy mụ chỉ nói trong mấy phút mà bọt mép của mụ văng đến nghìn năm". Có lẽ, đối với những con "sư tử Hà Đông" đó thì ngôn ngữu lại là cây bút rất tốt để vẽ lên tâm địa của chúng. Và Nguyễn Du đã rất thành công.

Một phương pháp điển hình trong nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật, một bút pháp quen thuộc của các nhà viết tiểu thuyết, truyện ngắn, đặt nhân vật vào hoàn cảnh điển hình. Kiều là nhân vật được khắc họa đạt nhất bằng bút pháp đó. Nàng là con gái, là phụ nữ. Không gì điển hình hơn khi đặt Kiều trong thế đối lập với lễ giáo phong kiến trước tình yêu chớm nở với Kim Trọng. Lễ giáo phong kiến nghiêm khắc và nghiệt ngã, "nam nữ thụ thụ bất thân". Nhưng Kiều vẫn chủ động đến với Kim Trọng: 'Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa", đêm về vẫn mơ tưởng:

Người đâu gặp gỡ làm chi Trăm năm biết có duyên gì hay không
Cách xử thế ấy đã làm bao nhà nho xưa chau mày, bặm môi, và ngay cả đến bây giờ cũng chưa hết khiến chúng ta bang hoàng. Cũng phải đặt con người "hiếu trọng tình thâm" ấy giữa một bên là cha và em đang chịu cảnh "giường cao rút ngược dây oan" với một bên là mối tình đầu chớm nở mới thấy hết giá trị, sức nặng của câu nói đầy nước mặt: "Dễ cho để thiếp bán mình chuộc cha" của Kiều, mới thấy hết hiếu nghĩa ở người con. Đây cũng là con người sống có trước có sau. Làm sao quên được hình ảnh "Từ công sánh với phu nhân cùng ngồi"? Khi có quyền hành trong tay, Kiều bỏ ra bao bạc vàng, lụa là đền ơn và kiên quyết tuyên án gia hình "những phường bạc án tinh ma" đã đẩy nàng xuống bùn đen. Chưa bao giờ Kiều hiện lên sắt đá, quyết định đến thế. Thật là con người tình, hiếu, nghĩa vẹn toàn. Đặc biệt tuy là một người anh hung những là con người biết rung động trước cái đẹp của người phụ nữ yếu ớt. Không gì hơn khi đặt chàng trong cuộc gặp gỡ với Kiều nơi lầu xanh chứ không phải trong cuộc chiến đấu, nơi trận tiền để khắc họa tấm lòng cao quý của người anh hùng ấy. Đó là cái độc đáo, và cũng là sáng tạo rất thành công của Nguyễn Du.

Điều làm ta ngỡ ngàng nhất là "bút pháp phân tích tâm lý tàn nhẫn", theo cách gọi của Phan Ngọc, ơ Nguyễn Du. Nhân vật của ông hiện lên theo cách rất người. Trong Truyện Kiều, còn ai được ông yêu thương hơn Thúy Kiều và Từ Hải. Thế nhưng Nguyễn Du vẫn làm chủ được ngòi bút của mình. Cái gì phải đến nó sẽ đến. Con người bao giờ cũng là con người với tất cả cái mạnh, yếu của mình. Đến một lúc nào đó, nàng Kiều sau bao nhiêu "gió dập sóng va" sẽ phải mệt mỏi, hãi hùng, phải "xiêu" trước "lễ nhiều nói ngọt", trước bả vinh hoa mà Hồ Tôn Hiến đưa ra để khuyên Từ Hải hàng. Và Từ Hải, con người hùng ấy, trước kia đã từng xiêu trước "tấm lòng nhi nữ", giờ nghe vợ tỉ tê tha thiết đến thế cũng phải lơi lỏng việc quân và cuối cùng ra hàng là điều dễ hiểu. Chúng ta chẳng trách họ, con người chứ có phải gỗ đá đâu. Và ta càng thêm phục Nguyễn Du.

Có người khi nhận xé bức tranh vẽ ngựa nói: "Từ khi có con ngựa ấy trên đời không còn gì đáng gọi là ngựa nữa". Cũng có thể nói, từ khi các nhân vật Truyện Kiều ra đời, nó mang tính điển hình đến nỗi hễ nói đến chàng bạc tình là nói "Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào" và "Máu ghen Hoạn Thư" cũng trở thành thành ngữ cố định. Thế mới biết tài Nguyễn Du.

Mặt khen nét bút càng nhìn càng tươi
Nét bút Nguyễn Du, nghệ thuật miêu tả và khắc họa tính cách nhân vật cảu Nguyễn Du sẽ làm cho Truyện Kiều sống mãi.

1
1
Quỳnh Anh Đỗ
12/10/2017 19:44:37

Nguyễn Du đã từng tả tài sắc Thúy Kiều như một sản phẩm quý giá của trời đất, của con người, một của quý mà con người phải bảo vệ. Nhưng xã hội đối xử với cái nhân vật quý báu ấy như thế nào? Thái độ của Mã Giám Sinh trong cuộc mua Kiều có thể coi là thái độ tiêu biểu. Mã Giám Sinh là hình ảnh điển hình của bọn “buôn thịt bán người" trong xã hội lúc bấy giờ.

Nguyễn Du căm ghét bọn người ấy đến tận xương, nên khi tên buôn người họ Mã vừa xuất hiện, ông đã giới thiệu y bằng những lời cộc lốc:

Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”

Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”.

Cái cộc lốc ấy lột tả vẻ thô lỗ, cộc cằn, vô giáo dục và cả sự giả dối lừa đảo của y. Đó là tên họ và quê quán do y khai ra. Biết đâu cả cái danh hiệu Giám Sinh ấy và cả cái huyện Lâm Thanh cũng chỉ là đồ giả mạo?

Vẻ ngoài của Mã Giám Sinh thật đáng ngờ:

Quá niên trạc ngoại tứ tuần,

Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.

Trong xã hội bình thường, nhất là xã hội phong kiến, ngoài bốn mươi tuổi, người ta sống với tuổi làm cha, làm ông, đứng đắn chững chạc lắm rồi. Thế mà y thì ăn diện, trai lơ, để làm gì chứ? Bầu đoàn của hắn cũng lộn xộn ồn ào, toàn một tụi lưu manh:

Trước thầy, sau tớ xôn xao...

Vừa bước vào nhà, Mã Giám Sinh đã tỏ rõ vẻ lấc cấc của một tên vô học ỷ mình có tiền:

Ghế trên ngồi tót sỗ sàng.

Không chờ người nhà mời ngồi, y nhảy lên ngay ngồi vào cái ghế đặt ở vị trí cao nhất, long trọng nhất trong nhà, cứ như y là người lớn nhất. Thế mà y lại đến nói xin cưới Thúy Kiều về làm vợ, tức là đến xin làm con rể gia đình Kiều! Bản chất giả dối của y đã bị lột trần.

Thực chất là kẻ buôn người, Mã Giám Sinh khảo sát món hàng của mình đến là kĩ lưỡng, cứ như người buôn rau đến lật lên từng mớ rau để xem xét, nó có tươi hay không, chỗ nào có lá héo, chỗ nào có lá sâu. Y xem tóc, xem tay, xem mặt, xem mũi, bắt đánh đàn, bắt làm thơ để ước tính lợi nhuận mà món hàng có thể mang đến để tính giá mua cho vừa.

Thấy món hàng thật là hợp ý, y tính chuyện mua. Là con buôn, Mã Giám Sinh thành thạo thứ ngôn ngữ trau chuốt giả dối của con buôn lành nghề. Y dùng những từ hoa mĩ để hỏi giá món hàng:

Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều,

Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”

Hỏi giá món hàng nhưng Mã Giám Sinh nói đến “sính nghi” cứ y như ý định hỏi Kiều về làm vợ thật vậy. Tuy nhiên, con buôn vẫn là con buôn. Cuối cùng, Mã Giám Sinh vẫn hiện nguyên hình con quỷ dẫu mặc áo người. Cách mặc cả của y mới keo cú làm sao! Từ “cò kè” mà Nguyễn Du dùng một cách sinh động cho ta biết rõ thái độ của gã lái buôn này. Cuộc mua bán thật quyết liệt, gay go. Bên bán thì treo giá, bên mua thì mặc cả từng đồng đến nỗi cuối cùng, Mã Giám Sinh hạ giá món hàng từ một nghìn lạng ban đầu xuống chỉ còn bốn trăm lạng, nghĩa là chưa được một nửa. Mua bán như thế, trách chi cửa hàng bán người của mụ Tú Bà ngày càng khấm khá, “một vốn bốn lời”.

Trong những nỗi khổ của con người ngày xưa, có không ít nỗi khổ, không ít người khổ vì những tên “buôn thịt bán người”. Chế độ nô lệ và chế độ phong kiến không còn nữa nhưng ngày nay, chế độ buôn người vẫn còn trên thế giới. Đoạn thơ này của Nguyễn Du vẫn là lời căm giận bọn “buôn thịt bán người” dẫu chúng có thay hình đổi dạng thế nào, vẫn thông thiết kêu gọi: Hãy bảo vệ con người!

1
6
Trung chịch
14/10/2017 21:31:33
Câu này mà mày cx hỏi á

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư