Thế Lữ đã mượn lời con hổ bị giam cầm trong vườn bách thú mà nói lên niềm tâm sự u uất, căm hờn và niềm khát khao tự do mãnh liệt của những kiếp nô lệ lầm than. Bài thơ mở đầu đầy căm hờn nhưng cũng đầy bất lực của con hổ. Sự căm hờn ấy là kết quả của sự dồn nén lâu ngày trong chật chội và ngột ngạt. Nó bứt rứt, khó chịu và u uất vô cùng. Khổ thơ là sự chán ngán cái thực tại, chán ngán "lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ" dám "giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm". Cảnh tù đầy "nhàn hạ" như một thứ đồ chơi thực sự đã trở thành một nỗi nhục nhã đối với chúa tể của rừng già. Khổ bốn tiếp tục mở ra "niềm uất hận" khi chúa sơn lâm hàng ngày phải chứng kiến những sự đổi thay tầm thường và giả dối. Đó là "những cảnh sửa sang" giả làm "bí hiểm" nhưng chỉ là sự bắt chước một cách vụng về cái chốn hoang vu và cao cả của sơn lâm. Đối lập với cảnh ở vườn bách thú là cảnh chốn âm u và hùng tráng của rừng già được mở ra ở khổ hai, ba. Ở cái nơi sơn cùng thủy tận ấy, hổ dõng dạc, đường hoàng trong vai chúa sơn lâm. Đó là chốn hoang vu mà thảo hoa nhiều đến nỗi không ai nhớ hết tên và tuổi. Chốn thiên đưòng của chúa tể muôn loài chứa chan những kỷ niệm, những chiến tích oai hùng của cái thủa được tự do. Nhưng đau đớn thay với hổ, những chiến tích ấy giờ đây chỉ còn là chuyện của "ngày xưa". Chính vì thế mà cái ước muốn và niềm khao khát được tự do của chúa sơn lâm mới cuộn dâng trong những dòng thơ cuối. Đó là cái ước muốn được trở về với cái uy danh thực sự, trở về với cuộc sống tự do của rừng già. Như vậy bài thơ chính là tâm trạng đầy bi kịch của chúa rừng khi bị sa cơ, bị thất thế, bị giam cầm. Bài thơ đặt trong hoàn cảnh lịch sử đất nước những năm 30 thì nỗi tủi nhục, cay đắng căm hờn của con hổ cũng đồng điệu với bi kịch của đồng bào ta trong cái cảnh gông xiềng của cuộc đời nô lệ.