Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Viết đoạn văn ngắn về nét độc đáo trong việc khắc họa nội tâm nhân vật Thúy Kiều qua đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích

Câu 1: Viết đoạn văn ngắn về nét đặc sắc về nghệ thuật tả người trong " chị em Thúy Kiều"
Câu 2: Viết đoạn văn ngắn về nét độc đáo trong việc khắc họa nội tâm nhân vật Thúy Kiều qua đoạn trích " kiều ở lầu Ngưng Bích"
Câu 3: Nêu nội dung , ý nghĩa nét độc đáo về nghệ thuật của đoạn trích " Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga"
5 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
3.878
1
1
Thiên Thiên Ái
22/10/2017 11:35:43

 PHÂN TÍCH Đ:

1. Nội dung: Nghệ thuật tả người của Nguyễn Du được thể hiện trong đoạn trích:

•     Hai chị em đều đẹp, mỗi người có một vẻ đẹp khác nhau.

•     Tả vẻ đẹp của Vân nhằm làm nổi bật tài sắc tuyện vời của Kiều (so sánh).

•     Tác giả ngầm dự báo về số phận của mỗi người thông qua việc miêu tả sắc đẹp.

•     Tác giả sử dụng bút pháp nghệ thuật: ước lệ, tượng trưng.

2. Tiều đề: phân tích tác phẩm (một đoạn trích).

3. Phạm vi kiến thức: đoạn trích, có thể liên hệ với một số câu, đoạn khác trong tác phẩm.

II.  DÀN Ý

1Mở bài:

•     Khái quát về nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Du.

•     Hai nhân vật: Thúy Vân, Thúy Kiều được tác giả miêu tả sinh động, thể hiện bút pháp tả người dặc sắc.

2.   Thân bài:

a)   Vẻ đẹp chung của hai chị em và mỗi người có một vẻ đẹp riêng (giới thiệu khái quát).

b)  Vẻ đẹp của Thúy Vân:

•     Đầy đặn, đoan trang, phúc hậu.

•     Báo hiệu một cuộc sống yên ổn, hạnh phúc.

c)   Sắc tài của Thúy Kiều:

•     Sắc: vẻ đẹp sắc sảo, nghiêng nước nghiêng thành.

•     Tài: thông minh, đa tài (cầm, kì, thi, họa...)

•     Cuộc sống tâm hồn phong phú, đa sầu đa cảm.

•     Dự báo một tương lai chìm nổi.

3.   Kết luận:

•     Nguyễn Du, người nghệ sĩ bậc thầy về nghệ thuật tả người, bằng bút pháp ước lệ, tượng trưng.

•     Tác giả tỏ thái độ trân trọng đề cao tài sắc của con người.

III. BÀI LÀM:

Truyện Kiều của Nguyễn Du có nhiều nhân vật, nhân vật nào cũng để lại trong tâm trí người đọc những ấn tượng khó phai mờ. Nguyễn Du - người nghệ sĩ bậc thầy - dưới ngòi bút của ông các nhân vật đều có dáng vẻ, tính cách và số phận cụ thể, riêng biệt. Trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, phần mở đầu của tác phẩm, Nguyễn Du đã ca ngợi vẻ đẹp của hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều, mỗi người có một vẻ đẹp riêng và cùng dự cảm về số phận tương lai khác nhau của họ.

Vân và Kiều, hai chị em ruột, cả hai đều rất đẹp; dáng điệu cốt cách mảnh mai, yểu điệu, tinh thần trắng trong như tuyết:

Mai cốt cách, tuyết tinh thần.

Một vẻ đẹp đã đạt độ hoàn hảo nhất: “mười phân vẹn mười”, nhưng hai chị em “mỗi người một vẻ”, không ai giống ai.

Tả vẻ đẹp của Vân, nhà thơ rất kiệm lời chỉ bốn câu thơ với phương pháp đặc tả đã vẽ lên chân dung cụ thể và sinh động. Thúy Vân tiêu biểu cho vẻ đẹp đầy đặn, phúc hậu của người phụ nữ Á Đông:

Vân xem trang trọng khác vời

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang

Vẻ đẹp đó toát lên một nhân cách đoan trang, đứng đắn:

Hoa cười ngọc thốt đoan trang

Nụ cười tươi như hoa hé nở, giọng nói thốt lên trong trẻo nghe như tiếng ngọc chạm vào mâm vàng. Thúy Vân có cái hạnh phúc rất lớn được tạo hoá ban phát cho một sắc đẹp mà rất nhiều người phụ nữ khác hằng ước ao:

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da

Bằng cách so sánh với vẻ đẹp thiên nhiên vốn có, nhà thơ đã ca ngợi mái tóc của Vân óng mượt đến nỗi mây cũng thua, làn da của nàng trắng ngần, tuyết phải chịu nhường. Một sắc đẹp mà thiên nhiên, đất trời đều chịu “thua”, chịu “nhường”, không đố kị, ghét ghen. Con người đó ắt hẳn có một cuộc sống yên ổn, hạnh phúc.

Tả Vân trước, tả Kiều sau, dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Du nhằm so sánh tăng cấp để làm nổi bật chân dung của Thúy Kiều:

Kiều càng sắc sảo mặn mà,

So bề tài sắc lại là phần hơn.

Một sự so sánh khái quát nhưng ta cũng cảm nhận được Thúy Kiều hơn hẳn em cả tài lẫn sắc. Tả vẻ đẹp của Kiều, Nguyễn Du chỉ tập trung vào đôi mắt:

Làn thu thủy, nét xuân sơn

Nhà thơ so sánh ẩn dụ ví ánh mắt của Kiều như: làn nước trong xanh của mùa thu, đôi mày có nét thanh tú của núi mùa xuân. Đôi mắt quả là kì diệu! Người ta thường nói đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, trong đôi mắt ấy là cả một thế giới nội tâm rất phong phú. Ngoài đôi mắt ra, Nguyễn Du cũng chỉ miêu tả một cách khái quát sắc đẹp của Kiều. Có lẽ trước một vẻ đẹp sắc sảo, lộng lẫy đến nhường ấy, nhà thơ nghĩ tất cả sự tô vẽ đều thừa nên ông chỉ biết mượn cách nói của người xưa mà kêu lên rằng:

Một hai nghiêng nước nghiêng thành.

Sắc đẹp của Kiều đã đạt đến độ hoàn mĩ, viên mãn nhất và trong đời này không thể có đến người thứ hai. Một sắc đẹp như đến cỏ cây thiên nhiên cũng phải hờn ghen:

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh

Cũng chính vì “hoa ghen” “liễu hờn” mà cuộc đời của nàng phải chịu nhiều nỗi truân chuyên.

Kiều hiện thân của sự kết hợp sắc - tài, tạo hoá đã ban cho nàng không chỉ sắc đẹp tuyệt vời mà còn một tài năng hơn người - Hiếm có người phụ nữ đa tài như vậy, trên các lĩnh vực nghệ thuật: thơ ca, hội họa, âm nhạc, nàng tỏ ra một người tài hoa rất mực:

Thông minh vốn sẵn tính trời

Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm

Kiều có đầy đủ phẩm chất của người nghệ sĩ, một năng lực cảm nhận nghệ thuật nhạy bén, một tâm hồn phong phú, tinh tế, nhưng có lẽ tài năng của Kiều được biểu hiện tập trung ở ngón đàn:

Cung thương làu bậc ngũ âm,

Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.

Tiếng đàn gắn liền với sốphận của đời nàng, trong tác phẩm, nhiều lần nhà thơ tả tiếng đàn của Kiều, mỗi hoàn cảnh, mỗi tâm trạng tiếng đàn khác nhau: khi nỉ non, ai oán, khi “như khóc như than”, khi “bốn giây giỏ máu năm đầu ngón tay”...

Nàng lựa khúc đàn “bạc mệnh”, như một sự xui khiến của sốphận: Khúc nhà tay lựa nên chương Một thiên “bạc mệnh” lại càng não nhân.

Kiều tài sắc nên mệnh bạc. Trong xã hội cũ, người phụ nữ có sắc có tài phải chịu nhiều đau khổ: “hồng nhan đa truân”. Kiều có sắc có tài hơn người nên chịu số kiếp long đong.

Thúy Kiều, Thúy Vân, hai hình tượng nhân vật được ngòi bút tài hoa của Nguyễn Du khắc họa sinh động. Cũng như những nhà thơ cổ điển khác, Nguyễn Du sử dụng nghệ thuật ước lệ, tượng trưng để miêu tả nhân vật, nhưng những nhân vật của ông trong “Truyện Kiều” đều có tính cách riêng, số phận riêng. Chị em Thúy Kiều, hai cô gái mà nhà thơ rất mực yêu mến trân trọng, ông dồn hết tâm lực, tình cảm để ca ngợi tài sắc của họ và xót xa, phẫn nộ biết chừng nào khi vẻ đẹp đó bị xã hội vùi dập, chà đạp.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
2
1
Quỳnh Anh Đỗ
22/10/2017 11:36:25

Từ một tác phẩm bình thường của Thanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn Du, với thiên tài nghệ thuật của mình, đã tạo nên “Truyện Kiều” bất hủ, niềm tự hào của văn học Việt Nam. Trong những đặc sắc về nghệ thuật của Nguyễn Du, có nghệ thuật tả người. Đoạn Nguyễn Du tả tài sắc chị em Thúy Kiều có thể được coi là một đoạn thơ tiêu biểu của nghệ thuật ấy.

Chỗ tài tình của Nguyễn Du là, khi ông tả người, tả vẻ ngoài của con người nhưng chính là ông tả bản chất con người với những đặc sắc bên trong của nó và dự báo cả số phận mai sau của họ. Tả chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du bắt đầu từ cái rất chung, giới thiệu những nét chung nhất của họ:

Đầu lòng hai ả tố nga

Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân,

Mai cốt cách, tuyết tinh thần

Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.

Cả hai chị em, Thúy Kiều và Thúy Vân đều đẹp, cái đẹp trọn vẹn của vẻ đẹp theo lí tưởng của xã hội và thời đại. Họ mang cái cốt cách thanh cao của cây mai và cái tinh thần trắng trong của tuyêt. Tuy thế, dẫu “mười phân vẹn mười”, cái đẹp của hai chị em vẫn là “mỗi người một vẻ”. Chính nhà thơ đã chuẩn bị miêu tả riêng, so sánh và phân biệt cho ra “mỗi người một vẻ” ấy. Nhà thơ bắt đầu từ Thúy Vân:

Vân xem trang trọng khác vời

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang

Hoa cười ngọc thốt đoan trang

Mấy thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

Qua đoạn trên, ta không thể biết được một cách tỉ mỉ, cụ thể về nhan sắc Thúy Vân nhưng ta lại biết được nhan sắc ấy thật tuyệt trần. Tất cả đều trọn vẹn, tất cả đều đạt tới mức cao nhất yêu cầu của xã hội về nhan sắc. Đó là một vẻ đẹp mà với những từ “trang trọng”, “đầy đặn”, “nở nang”, “đoan trang”, “mây thua”, “tuyết nhường”, luôn luôn tạo cho người xung quanh một tình cảm trân trọng, yêu mến, độ lượng. Đó là một vẻ đẹp dễ dàng được xa hội công nhận.

Tả Thúy Vân chỉ bốn dòng thế là đủ, Nguyễn Du chuyển sang tả Thúy Kiều:

Kiều càng sắc sảo mặn mà,

So bề tài sắc lại là phần hơn:

Làm thu thuỷ, nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh

Một hai nghiêng nước nghiêng thành

Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.

Hóa ra, khi tả Thúy Vân, Nguyễn Du đã bắt đầu tả Thúy Kiều, Thúy Vân trở thành điểm tựa để Nguyễn Du đặt đòn bẩy mà nâng Thúy Kiều lên chỗ tuyệt vời. Kiều có tất cả những gì Thúy Vân có nhưng ở mức độ sắc sảo hơn, mặn mà hơn. Tả Thúy Vân, nhà thơ chỉ nói đến sắc. Thúy Kiều thì “tài sắc”, và cả “tài” lẫn “sắc” đều “lại là phần hơn”.

Tả Thúy Kiều, Nguyễn Du cũng dùng phương pháp ước lệ, với những thành ngữ quen thuộc “làn thu thuỷ” để chỉ đôi mắt, “nét xuân sơn” để chỉ đôi lông mày; tuy thế với nhưng từ ngữ “ghen”, “hờn” gắn cho tạo vật, nhà thơ đã cho thấy nhan sắc Thuý Kiều là nhan sắc độc đáo, kì lạ, vượt lên trên sự bình thường. Đó là nhan sắc hiếm có trên đời, như một của quý ít khi xuất hiện, thường được tôn sùng và cũng thường bị đố kị, lúc nào cũng gây ra sóng gió cho mình.

Một hai nghiêng nước nghiêng thành

Sắc đành đòi một, tài dành họa hai.

Đã giới thiệu tài sắc hơn đời của Thúy Kiều, đã tả sắc của nàng như thế, Nguyễn Du tiếp tục bằng việc tả tài của nàng:

Thông minh vốn sẵn tính trời,

Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm,

Cung thương, lầu bậc ngũ âm

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương,

Khúc nhà tay tựa nên chương

Một thiên “bạc mệnh” lại càng não nhân.

Tài của Kiều là cái tài toàn diện của nghề phong lưu: cầm, kì, thi, họa, mà tài nào cũng ở mức tuyệt đỉnh, trọn vẹn. sắc đã hiếm có, tài lại hiếm có hơn. Thúy Kiều đúng là người hiếm ở đời. Người hiếm có như thế thì có thể gặp tột cùng hanh phúc, hoặc có thể tột cùng đau khổ. Mà Kiều thì chắc là sẽ đau khổ bởi vì “hoa ghen” với nàng, “liễu hờn” với nàng kia mà! Tả tài sắc Thúy Kiều, thật ra Nguyễn Du đã dự báo cho thân phận của nàng.

Thúy Kiều và Thúy Vân đúng là “mười phân vẹn người” nhưng lại “mỗi người một vẻ”. Đảo lộn trình tự, nói về em trước rồi mới nói đến chị, Nguyễn Du đã tập trung vào nhân vật chính của tác phẩm. Không đi vào chi tiết, Nguyễn Du chỉ nói lên cái thần của nhân vật bằng những nét tiêu biểu nhất, đó chính là điều đặc sắc trong nghệ thuật tả người của Nguyễn Du.

2
1
Quỳnh Anh Đỗ
22/10/2017 11:38:16

Câu 2: Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã miêu tả tâm trạng nhân vật một cách xuất sắc. Đoạn thơ cho thấy nhiều cung bậc tâm trạng của Kiều. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi, là tấm lòng thủy chung, nhân hậu dành cho Kim Trọng và cha mẹ.

Kết cấu của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích rất hợp lí. Phần đầu tác giả giới thiệu cảnh Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích; phần thứ hai: trong nỗi cô đơn buồn tủi, nàng nhớ về Kim Trọng và cha mẹ; phần thứ ba: tâm trạng đau buồn của Kiều và những dự cảm về những bão tô cuộc đời sẽ giáng xuống đời Kiều.

Thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu được miêu tả hoang vắng, bao la đến rợn ngợp. Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, lác đác như bụi hồng nhỏ bé như càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc này:

Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia

Có thể hình dung rất rõ một không gian mênh mông đang trải rộng ra trước mắt Kiều. Không gian ấy càng khiến Kiều xót xa, đau đớn:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Một chữ bẽ bàng mà lột tả thật sâu sắc tâm trạng của Kiều lúc bấy giờ: vừa chán ngán, buồn tủi cho thân phận mình, vừa xấu hổ, sượng sùng trước mây sớm, đèn khuya. Và cảnh vật như cũng chia sẻ, đồng cảm với nàng: nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Bức tranh thiên nhiên không khách quan, mà có hồn, đó chính là bức tranh tâm cảnh của Kiều những ngày cô đơn ở lầu Ngưng Bích.

Trong tâm trạng cô đơn, buồn tủi nơi đất khách quê người, Kiều tìm về với những người thân của mình. Nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ được Nguvễn Du miêu tả rất xúc động trong những lời độc thoại nội tâm của nhân vật. Nỗi nhớ thương được chia đều: bốn câu đầu dành cho người yêu, bốn câu sau dành cho cha mẹ. Nhưng nỗi nhớ với chàng Kim được nói đến trước vì đây là nồi nhớ nồng nàn và sâu thẳm nhất. Nồi nhớ đó được xoáy sâu và đêm thề nguyền dưới ánh trăng và nỗi đau cũng trào lên từ đó:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Bên trời góc bể bơ vơ,

Tấm thân gột rửa bao giờ cho phai.

Lời thơ như chứa đựng nhịp thổn thức của một trái tim yêu đương đang chảy máu! Nỗi nhớ của Kiều thật tha thiết, mãnh liệt! Kiều tưởng tượng ra cảnh chàng Kim đang ngày đêm chờ mong tin mình một cách đau khổ và tuyệt vọng. Mới ngày nào nàng cùng với chàng Kim nặng lời ước hẹn trăm năm mà bỗng dưng, nay trở thành kẻ phụ bạc, lỗi hẹn với chàng. Chén rượu thề nguyền vẫn còn chưa ráo, vầng trăng vằng vặc giữa trời chứng giám lời thề nguyền vẫn còn kia, vậy mà bây giờ mỗi người mỗi ngả. Rồi bất chợt Kiều liên tưởng đên thân phận Bên trời góc bể bơ vơ của mình và tự dằn vặt: Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Kiều nuối tiếc mối tình đầu trong trắng của mình, nàng thấm thía tình cảnh cô đơn của mình, và cũng hơn ai hết, nàng hiểu rằng sẽ không bao giờ có thể gột rửa được tấm lòng son sắt, thủy chung của mình với chàng Kim. Và thực sự, bóng chàng Kim cũng sẽ không bao giờ phai nhạt trong tâm trí Kiều trong suốt mười lăm năm lưu lạc.

Nhớ người yêu, Kiều càng xót xa nghĩ đến cha mẹ. Mặc dầu nàng đã liều đem tấc có, quyết đền ba xuân, cứu được cha và em thoát khỏi vòng tù tội, nhưng nghĩ về cha mẹ, bao trùm trong nàng là một nỗi xót xa lo lắng. Kiều đau lòng khi nghĩ đến cảnh cha mẹ già tựa cửa trông con. Nàng lo lắng không biết khi thời tiết thay đổi ai là người chăm sóc cha mẹ. Nguyễn Du đã rất thành công khi sử dụng thành ngữ, điển cố (tựa cửa hôm mai, quạt nồng ấp lạnh, gốc tử) để thể hiện tình cảm nhớ nhung sâu nặng cũng như những băn khoăn, trăn trở của Kiều khi nghĩ đến cha mẹ, nghĩ đến bổn phận làm con của mình. Trong hoàn cảnh của Kiều, những suy nghĩ, tâm trạng đó càng chứng tỏ Kiều là một người con rất mực hiếu thảo.

Nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, nhưng rồi cuổì cùng nàng Kiều lại quay về với cảnh ngộ của mình, sống với tâm trạng và thân phận hiện tại của chính mình. Mỗi cảnh vật qua con mắt, cái nhìn của Kiều lại gợi lên trong tâm trí nàng một nét buồn. Và nàng Kiều mỗi lúc lại càng chìm sâu vào nỗi buồn của mình. Nỗi buồn sâu sắc của Kiều được ngòi bút bậc thầy Nguyễn Du mỗi lúc càng tô đậm thêm bằng cách dùng điệp ngữ liên hoàn rất độc đáo trong tám câu thơ tả cảnh ngụ tình:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Nguyễn Du quan niệm: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu... Mỗi cảnh vật hiện ra qua con mắt của Kiều ở lầu Ngưng Bích đều nhuốm nỗi buồn sâu sắc. Mỗi cặp câu gợi ra một nỗi buồn. Buồn trông là buồn mà nhìn ra xa, nhưng cũng là buồn mà trông ngóng một cái gì đó mơ hồ sẽ đến làm đổi thay tình trạng hiện tại. Hình như Kiều mong cánh buồm, nhưng cánh buồm chỉ thấp thoáng,xa xa không rõ, như một ước vọng mơ hồ, mỗi lúc mỗi xa. Kiều lại trông ngọn nước mới từ cửa sông chảy ra biển, ngọn sóng xô đẩy cánh hoa phiêu bạt, không biết về đâu như thân phận của mình. Rồi màu xanh xanh bất tận của nội cỏ rầu rầu càng khiến cho nỗi buồn thêm mênh mang trong không gian; để rồi cuối cùng, nỗi buồn đó bỗng dội lên thành một nỗi kinh hoàng khi ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Đây là một hình ảnh vừa thực, vừa ảo, cảm thấy như sóng vỗ dưới chân, đầy hiểm họa, như muốn nhấn chìm Kiều xuống vực.

Tám câu thơ tuyệt bút với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình kết hợp với nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn đầu mỗi câu lục và nghệ thuật ước lệ tượng trưng cùng với việc sử dụng nhiều từ láy tượng hình, tượng thanh (thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, ầm ầm) đã khắc họa rõ cảm giác u uất, nặng nề, bế tắc, buồn lo về thân phận của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh thiên nhiên đồng thời cũng là một bức tranh tâm trạng có bố cục chặt chẽ và khéo léo. Thiên nhiên ở đây liên tục thay đổi theo diễn biến tâm trạng của con người. Mỗi nét tưởng tượng của Nguyễn Du đều phản ánh một mức độ khác nhau trong sự đau đớn của Kiều. Qua đó, cho thấy Nguyễn Du đã thực sự hiểu nỗi lòng nhân vật trong cảnh đời bất hạnh để ca ngợi tấm lòng cao đẹp của nhân vật, để giúp ta hiểu thêm tâm hồn của những người phụ nữ tài sắc mà bạc mệnh.

1
1
Thiên Thiên Ái
22/10/2017 11:38:45
Trong Truyện Kiều, có nhiều đoạn thơ tả rất hay nỗi cô đơn, nhớ nhà của Kiều, nhưng không đoạn thơ nào thể hiện được trạng thái bi đát, bế tắc, đơn côi như đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích.

Sau khi biết mình bị bán vào lầu xanh, Kiều đã tự tử nhưng không chết. Biết Kiều tính khảng khái, cứng rắn, Tú Bà cho Kiều ở riêng trong lầu Ngưng Bích để thực hiện âm mưu khác. Trong thời gian này, sức khỏe của nàng mới được hồi phục, nhưng tình cảm lại rất cô đơn. Chết thì nàng không chết nữa, vì sợ bị liên lụy đến cha mẹ, nhưng sống thì sẽ sống như thế nào? Một thân một mình nơi hoàn toàn xa lạ, từ cổ vỏ thân? Đây là đoạn thơ bay nổi tiếng trong Truyện Kiều, cực tả nỗi lòng cô đơn, buồn thảm, bi đất của nàng. 

Nguyễn Du vẽ ra khung cảnh xung quanh theo con mắt buồn, cô đơn của  Kiều… Hai chữ khóa xuân (điển tích Tam quốc) rất đẹp nhưng thực chất là Kiều bị giam lỏng. Lầu Ngưng Bích cao quá, trơ trọi quá, Kiều chỉ còn ở chung, làm bạn với non xa, trăng gần. Một cảm giác trơ trọi, rợn ngợp, lơ lửng nhìn ra em thấy không gian bao la, xa vời: non xa, xa trông, cát vàng, cồn nọ, bụi hổng, dặm kia... tịnh không bóng cây, bông nhà, bóng người. Về thời gian, sớm làm bạn vớì mây, khuya đêm làm bạn với đèn, thức ngủ một mình thui thủi, triền miên thật là bé bàng, chán ngán vô vọng. Buồn vì cảnh một phần, phần khác là vì tình: Đó là nỗi buồn chia sẻ lòng nàng. 

Thứ hai, nhà thơ cực tả nỗi lòng thương nhớ người thân.

Người đầu tiên được nàng nhớ là Kim Trọng - người tình đầu tiên mà đã cùng  nàng thề non hẹn biển… Trong tâm trí nàng vẫn còn như in hình ảnh hai người sẽ cùng nhau uống rượu thế bối dưới trăng. Thương nhất là việc Kim Trọng chưa biết Kiều đã thuộc về người khác, vẫn hàng đêm ngày thương nhớ nàng uổng công. Hết thương Kim Trọng lại thương mình… Tấm son là tấm lòng son sắt thủy chung của Kiều với Kim Trọng. Mối tình này không bao giờ nàng có thể quên. Kế đến là thương nhớ cha mẹ già… Tựa cửa là hình ảnh ngóng trông. Tưởng tượng cha mẹ đang tựa cửa trông ngóng nàng về. Cảm thấy xa nhà đã rất lâu (cách mấy nắng mưa) và cha mẹ đã già (gốc từ
đã vừa người ôm).

Hiển nhiên Kiều cũng nhớ hai em, song chàng Kim và cha mẹ vẫn là mối tình  cảm tha thiết gắn bó nhất trong lòng nàng.

Cuối cùng, nhìn đến tình cảnh trống trải, xa vắng mà nghĩ đến thân phận… Đây là những câu thơ réo rất bậc nhất về nỗi buồn luân lạc, bơ vơ. Mỗi câu như gợi lên một nỗi buồn thảm, hãi hùng, lắng sâu trong kí ức... 

Tám câu thơ, mỗi cặp câu gợi một nỗi buồn sâu thẳm. 

Buồn trông là buồn mà nhìn xa, buồn mà trông ngóng một cái gì đó mơ hồ sẽ đến làm đổi thay tình trạng hiện tại, nhưng chỉ vô vọng, hão huyền: Hình như nàng đang mong một con thuyền, một cánh buồm, nhưng cánh buồm chỉ thấp thoáng xa xa, không rõ như một ước vọng mơ hồ, mỗi lúc một xa. Lại trông ngọn nước từ cửa sông chảy ra biển, ngọn sóng xô đẩy cánh hoa trôi dạt, không biết về đâu. Ngồi trên lầu cao, làm sao Kiều thấy được cánh hoa trên dòng nước? Đây chỉ là cảnh tưởng tượng về số phận của mình. Lại trông chân mày, cánh đồng, mặt đất một màu mờ mịt, xanh xanh, chẳng có chân trời. Trông gió cuốn mặt duềnh (Chỗ ăn sâu vào đất liền thành vũng, vụng). Gió cuốn làm sóng vỗ dào dạt, ầm ầm. Tất nhiên, dù lầu Ngưng Bích có sát bờ biển cũng không thể nghe rõ tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi được. Đó là hình ảnh vừa thực vừa ảo. Người cảm thấy sóng vỗ dưới chân, đầy hiểm họa như muốn nhấn chìm nàng xuống vực.

Tám câu thơ là thực cảnh - là tâm cảnh. Toàn là hình ảnh của sự vô vọng, dạt trôi, bế tắc và chao đảo, nghiêng đổ. Đây là lúc tình cảm của nàng Kiều mong manh nhất, yếu đuối nhất, là lúc nàng dễ rơi vào cạm bẫy, như nàng sẽ rơi vào tay Sở Khanh ngay sau đó.

Không gian bao la, rợn ngợp, không một bóng người. Thời gian như dồn lại, không biết bao nhiêu buổi sáng, buổi chiều lặp lại. Con người trở nên nhỏ bé, bất lực cô đơn, trơ trọi. Nghệ thuật góp phần kéo dài nỗi buồn vô vọng, vô tận của con người.
2
1
Thiên Thiên Ái
22/10/2017 11:40:11

Nhân vật trong đoạn truyện được miêu tả chủ yếu qua hành động, cử chỉ, lời nói. Do mục đích sáng tác ban đầu là để đọc truyền miệng, kể thơ, vì thế tác giả ít chú ý khắc họa chân dung ngoại hình, cũng ít đi sâu vào diễn biến nội tâm, giống như truyện cổ dân gian. Hai nhân vật chính trong đoạn được giới thiệu bằng vài nét ước lệ còn chủ yếu được đặt trong những mối quan hệ xã hội, trong những tình huống xung đột của đời sống, rồi bằng hành động, cử chỉ, lời nói của mình tự bộc lộ tính cách.

Ngôn ngữ tác giả mộc mạc, bình dị, gần với lời nói thông thường, mang màu sắc địa phương Nam Bộ. Nó có phần thiếu trau chuốt, uyển chuyển nhưng lại phù hợp với ngôn ngữ kể, rất tự nhiên, dễ đi vào quần chúng.

Ngôn ngữ đa dạng, phù hợp với diễn biến trình tự tính cách nhân vật.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k
Gửi câu hỏi
×