Học giả Đào Duy Anh xếp bài thơ Côn Sơn ca vào số 87 trong ức Trai thi tập. Nguyên tác bằng chữ Hán, viết theo thể ca gồm 36 câu, câu ngắn nhất 4 chữ, câu dài nhất 10 chữ, phần lớn là ngũ ngôn và thất ngôn. Dịch giả đã chuyển thành thơ lục bát, 26 câu; trong các bản dịch Côn Sơn ca thì bản dịch này là thanh thoát hơn, thể hiện được hồn thơ Nguyễn Trãi đã nhiều năm ở ẩn tại động Thanh Hư thuộc Côn Sơn. Thời thơ ấu, Nguyễn Trãi từng sống với mẹ và ông ngoại tại đấy. Nguyễn Trãi đã xem Côn Sơn là “quê cũ” của mình. Trong ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập, ông có nhiều bài thơ về Côn Sơn với bao tình thương mến, thắm thiết. Bao nhiêulần nhờ hồn mộng mà tìm làng cũ: “Kỉ thác mộng hồn tầm cố lí” (Về Côn Sơn làm trong thuyền).
“Quê cũ nhà ta thiếu của nào?
Rau trong nội. cá trong ao.
(…) Cảnh thanh dường ấy về chăng nghỉ.
Lẩn thẩn làm chi áng mận đào?”
(Mạn thuật)
Côn Sơn calà bài ca giao cảm với thiên nhiên, cũng là bài ca tâm trạng thời thế, triết lí về cuộc đời.
Phần đầu nói về vẻ đẹp lâm tuyền của Côn Sơn bằng bốn cảnh: Suối, đá, thông và trúc. Trong nguyên tác chữ Hán, tác giả viết bằng thơ bốn chữ và thơ năm chữ, nhằm miêu tả vẻ đẹp Côn Sơn tầng tầng lớp lớp xuất hiện:
“Côn Sơn hữu tuyền,
Kì thanh lình linh nhiên
Ngô dĩ vi cầm huyền
Côn Sơn hữu thạch
Vũ tẩy đài phô bích
Ngô dĩ vi đạm tịch…”.
Cảnh đẹp thứ nhất là suối Côn Sơn, tiếng nước chảy róc rách như tiếng đàn cầm. Cảnh đẹp thứ hai là đá, mưa sạch rêu biếc như chiếu êm. Cảnh đẹp thứ ba là rừng thông, tán lá như những chiếc lọng rủ bóng đáng yêu gắn bó với tâm hồn nhà thơ. Suối, đá, trúc, thông là nơi nương tựa, nâng đỡ tâm hồn, là đối tượng để thi nhân cùng với thiên nhiên giao hòa giao cảm, để “Ta cho là đàn cầm”, để “Ta cho là đệm chiếu”, để “Ta nghỉ ngơi” trong rừng thông, để “Ta ngâm nga” bên rừng trúc. Hình ảnh thơ là âm thanh, là màu sắc gắn liền với cảm giác, với tâm hồn nhà thơ bằng những liên tưởng vô cùng thiết tha, đằm thắm:
“Trong ghềnh thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn”.
Gắn bó, chan hòa với suối, đá, thông, trúc Côn Sơn chính là biểu lộ tấm lòng của Nguyễn Trãi đối với quê cũ yêu thương. Mấy chục năm trời loạn lạc, li hương, không đêm nào ông không nằm mộng nhớ quê, nhớ luống cúc vườn cũ:
“Tưởng nhớ vườn nhà ba rặng cúc,
Hồn về đêm vẫn gửi chiêm bao”.
(Ngày thu ngẫu nhiên làm)
Quê cũ với tùng, với đá, với mai… biết bao thương nhớ bồi hồi:
“Thạch bạn tùng phong có thắng tưởng
Giản biên mai ảnh phụ thanh ngâm”.
(Tùng reo bậc đá ai nghe đấy?
Mai chiếu bên khe thú vịnh đâu?)
Giọng thơ trầm hẳn xuống: Nguyễn Trãi đang vui thú say sưa lắng nghe tiếng suối róc rách, đang say mê ngắm nhìn rêu đá, thông rủ bóng, trúc xanh mát, rồi trầm ngâm tự nói với mình, tự nhắc nhở mình:
“Về đi sao chẳng sớm toan
Nửa đời vướng bụi trận hoàn làm chi?
Câu thơ chữ Hán nghĩa là: Hỡi người sao không về đi, nửa đời người giam buộc mình mãi trong
cát bụi làm chi? Bốn chữ “Bất quy khứ lai” lấy cảm hứng từ bài “Quy khứ lai từ” của Đào Tiềm, một danh sĩ cao khiết đời Tấn bên Trung Quốc đã coi thường danh lợi, không chịu khom lưng uốn gối vì mấy đấu gạo lương bổng, đã treo ấn từ quan, trở về vườn cũ, cày ruộng, ươm cúc, thảnh thơi với tháng ngày. Nguyễn Trãi làm quan tài năng không được thi thố, bị bọn quyền thần, nịnh thần chèn ép. Có lúc ông tự than: “Dưới công danh đeo khổ nhục” (Ngôn chí), hoặc: “Được thua phú quý dầu thiên mệnh – Chen chúc làm chi cho nhọc nhằn” (Mạn thuật). Người anh hùng thuở “Bình Ngô” đã từng “Viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết mọi thời” thế mà giờ đây tự trách mình “Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi?”, điều đó cho thấy Nguyễn Trãi đang sống những ngày tháng đầy bi kịch. Đó là tâm trạng thời thế. Năm 1429, Lê Thái Tổ đã sát hại Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, hai đại công thần; còn Nguyễn Trãi cũng đã bị hạ ngục. Sau đó tuy được thanhưng chỉ là một công thần “thanh chức”. Nguyễn Trãi đã nhiều năm sống trong tâm trạng muôn trở về Côn Sơn làm bạn với cỏ hoa chốn lâm tuyền:
“Ngoài năm mươi tuổi ngoài chưng thế,
Ắt đã trong hàng nước ở bầu”.
Nguyễn Trãi có lúc tự dặn mình: “Vườn quỳnh dù có chim hót – Cõi trần có trúc đứng ngăn”. Nhưng trước áp lực của bọn nịnh thần, ông phải lui về Côn Sơn. Mấy năm sau Lê Thái Tông lại xuống chiếu vời Nguyễn Trãi ra làm quan. Trong biểu tạ ân, ông hả hê nói: “Cảm mà chảy nước mắt, mừng mà sợ trong lòng”; ông tự cho mình là con ngựa già “còn kham rong ruổi”, là cây thông qua năm rét mà “còn dạn tuyết sương”. Chẳng bao lâu sau đó, Nguyễn Trãi đã về hẳn Côn Sơn. Cuộc đời Nguyễn Trãi đã phản ánh tâm trạng đầy bi kịch giằng xé, đúng như ông đã viết trong Côn Sơn ca:
“Về đi sao chẳng sớm toan,
Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi?”
“Nguyễn Trãi nhân nghĩa quá, trung thực quá, thanh liêm quá..” (Phạm Văn Đồng), và đó là nguồn gốc sâu xa bi kịch vô cùng đau thương của người anh hùng thuở “bình Ngô”.
Côn Sơn cacòn hàm chứa triết lí về cuộc đời của ức Trai. Trước hết ông nói về giàu sang phú quí, bần tiện, vinh và nhục ở đời. Đổng Trác đời Đông Hán, Nguyên Tải đời Đường chức trọng quyền cao, phú quí đến cực độ, cuốicùng chết trong ô nhục, để lại tiếng dơ muôn đời:
“Muôn chung chín vạc làm gì,
Cơm rau nước lã nên tuỳ phận thôi.
Đổng, Nguyên để tiếng trên đời,
Hồ tiêu ăm ắp, vàng mười chứa chan”.
Tác giả nhắc lại cách ứng xử và cái chết của Bá Di, Thúc Tề đời Ân, Chu, từ đó suy ngẫm về “hiền ngu” ở đời, chung qui chỉ là “đều làm cho thỏa được như ý mình”.
Kiếp người khác nào “cây cỏ”, đời người một trăm năm, mừng, buồn, lo, vui, cái nọ đi, cái kia đến, tốt tươi rồi khô héo, tuần hoàn nôi tiếp nhau trong vòng một trăm năm hữu hạn. Sự chiêm nghiệm của nhà thơ thấm một nỗi buồn mênh mông, khi tóc đã bạc, chỉ còn biết làm bạn với mây núi, tráng ngàn:
“Láng giềng một áng mây bạc,
Khách khứa hai ngàn núi xanh”.
Ý nghĩa cuộc đời là gì? Nguyễn Trãi mang màu sắc bi quan chưa hẳn đã sai? Đời người “Trăm năm còn có gì đâu? – Chẳng qua một nấm cỏ khô xanh rì” (Cung oán ngâm, khúc). Với Nguyễn Trãi lúc này thì chết là hết. Sự phủ định đầy ngao ngán:
“Núi gò đài các đó đây
Chết rồi ai biết dâu ngày nhục vinh”.
Nguyễn Trãi viết Côn Sơn ca không bao lâu trước khi vụ án Lệ chi viên xảy ra. Tâm trạng thời thế, triết lí về cuộc đời mà Nguyễn Trãi nói đến trong phần hai bài ca là cả một nỗi buồn thấm sâu, tỏa rộng trong tâm hồn nhà thơ. Từ những chiêm nghiệm lịch sử phong kiến Việt Nam, nhất là ba triều đại Trần, Hồ, Lê, về cuộc đời ông ngoại (tướng công Trần Nguyên Đán), về cha mình (Nguyễn Phi Khanh), về những thăng trầm, vinh nhục, ngọt bùi cay đắng của đời mình, nên ức Trai mới có suy ngẫm ấyvề một phương diện khác, triết lí về cuộc đời của Nguyễn Trãi thể hiện sự cảm thông cho số kiếp của con người. Cái nhìn ấy, sự suy ngẫm ấy mang tính nhân bản sâu sắc. Bi kịch của Nguyễn Trãi là bi kịch của kẻ sĩ trong xã hội phong kiến, cũng là bi kịch lịch sử “Anh hùng di hận kỉ thiên niên” (Quan Hải).
Hai câu kết như một lời thiết tha nhắn gọi:
“Sao, Do bằng có tái sinh,
Hãy nghe khúc hát bên ghềnh Côn Sơn”.
Sao Phủ và Hứa Do, hai cao sĩ đời vua Nghiêu trong lịch sử truyền kì Trung Quốc không màng công danh, chỉ thích sống cuộc đời ẩn sĩ, coi trọngthanh cao, chan hòa với núi cao rừng thẳm. Nguyễn Trãi một mặt cảm thông, kính trọng tấm gương sáng của hai người hiền xa xưa, mặt khác tự hào biểu lộ niềm tự hào về tâm thế của mình: trở về Côn Sơn là để thoát vòng danh lợi, được chan hòa với suốirừng thiên nhiên, sống cuộc đời nhàn hạ, thanh cao. Đó là âm điệu trữ tình, là nội dung tư tưởng tình cảm của “Khúc hát bên ghềnh Côn Sơn” vậy.
Nếu văn (Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo…) là khúc ca thắng trận của người anh hùng thì thơ (Quốc âm thi tập, ức Trai thi tập) là tấm lòng, là ý chí nung nấu của ức Trai. Côn Sơn ca là bài hát về suối, đá, thông, trúc, là tình yêu quê hương, là những suy ngẫm buồn lo về cuộc đời, về kiếp ngươi hữu hạn trong dòng chảy vô hạn của thời gian. Cảnh sắc thiên nhiên Côn Sơn đã trở thành tâm hồn của ức Trai. Triết lí về cuộc đời mà Nguyễn Trãi nói đến trong phần hai bài ca thật ra không có gì mới. “Thân cát bụi lại trở về cát bụi” (Kinh Thánh), “Sinh tồn hoa ốc xứ – Linh lạc qui sơn khưu (Sống ở nhà lộng lẫy, chết lại về núi gò – Tào Thực, đời Hán). “Xử thế nhược đại mộng- Hồ vị lao kì sinh?” (Sông ở đời như giấc mộng lớn- Tội chi vất vả đời mình – Lí Bạch)… Có điều, qua Côn sơn ca, ta thấy hồn thơ của ức Trai rất đẹp. Nguyễn Trãi tự hào cuộc đời mình thanh cao, thương cuộc đời mình đầy bi kịch, thương đời người cát bụi. Chất triết lí Côn Sơn ca giàu tính nhân văn để lại dấu ấn đậm đà trong lòng ta..