Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích nội dung bài thơ Nhàn, qua đó nêu lên suy nghĩ của nhà thơ

Phân tích nội dung bài thơ Nhàn, qua đó nêu lên suy nghĩ của nhà thơ
3 trả lời
Hỏi chi tiết
134
1
1
Vũ Phan Bảo Hân
07/01/2022 14:46:10
+5đ tặng

Nhàn” là bài thơ Nôm số 73 trong Bạch Vân quốc ngữ thi

- Nội dung: Bài thơ là lời tâm sự nhẹ nhàng, thâm trầm, sâu sắc về quan niệm sống nhàn của tác giả là hòa hợp với thiên nhiên, coi thường danh lợi, luôn giữ cốt cách thanh cao trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.

- Bố cục 4 phần (đề - thực - luận - kết):

+ Hai câu đề: Hoàn cảnh sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm

+ Hai câu thực: Quan niệm sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm

+ Hai câu luận: Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở chốn quê nhà

+ Hai câu kết: Triết lí sống nhàn.


 

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
duong nguyen
07/01/2022 14:46:56
+4đ tặng

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) là một người có học vấn uyên bác, từng đỗ Trạng Nguyên năm 1535 và ra làm quan dưới triều nhà Mạc. Nhưng do sống và phụng sự trong một thời kỳ lịch sử đầy sóng gió và đảo điên của chế độ phong kiến Việt Nam Trịnh - Nguyễn phân tranh nên Ông đã cáo quan về quê ở ẩn và tận hưởng cuộc sống thanh nhàn cho đến cuối đời. Tập thơ Bạch vân quốc ngữ thi tập mà trong đó có bài thơ Nhàn của tác giả cũng ra đời vào hoàn cảnh đó. Bài thơ Nhàn là một tác phẩm nổi tiếng thể hiện quan niệm sống thanh tao của một bậc đại Nho xem thường danh lợi, phú quý, xem chúng là một giấc mộng xa hoa, phù phiếm , không xứng đáng để một con người trong sáng theo đuổi.

Mở đầu bài thơ, tác giả đã giới thiệu cho người đọc về hoàn cảnh sống thư thái và êm ả nơi làng quê Đồng bằng Bắc Bộ thật yên bình với những hoạt động quen thuộc:

Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

Câu thơ hiện lên với những hình ảnh về các vật dụng vô cùng quen thuộc của người nông dân nơi làng quê: cái mai, cái cuốc để đào đất trồng cây, cần câu đê câu cá- một thú vui cực kì tao nhã của con người lúc rảnh rỗi. Nhà thơ thật tinh tế khi sử dụng số từ “ một” kết hợp với tên các dụng lao động quen thuộc để diễn tả một tư thế sẵn sàng lao động và sự gắn bó gần gũi của những vật dụng ấy với đời sống của người nông dân thiện lành. Phong thái ung dung của nhà thơ còn được thể hiện thật rõ nét qua cách ngắt nhịp 2/2/3 của câu thơ.

Chỉ bằng vài nét chấm phá mở đầu của bài thơ, đã mở ra một không gian nơi chốn thôn quê thật thanh bình với những vật dụng lao động gắn liền với công việc nặng nhọc, vất vả và lam lũ của một lão canh điền Nguyễn Bỉnh Khiêm. Quan Trạng Nguyên đan áo mũ xênh xang, chức lớn, bổng lộc nhiều, ấy vậy mà bỗng dưng rũ bỏ tất cả để trở về với đời sống “tự cung tự cấp” thì âu cũng đã là một cái “ngông” trước thói đời hám danh, hám lợi. Nhưng cho dù đối diện với một nhịp sống mới mẻ, thi nhân vẫn rất vui vẻ và tự hào về những thú vui giản đơn mà đầy tao nhã ấy.

Câu thơ thứ hai với từ “ thơ thẩn” được đặt ở đầu câu thể hiện phong cách ung dung và tâm trạng thảnh thơi của con người khi tâm tĩnh tại không vướng bận chuyện trần thế. Hơn thế nữa cụm từ “dầu ai vui thú nào” cũng thể hiện tâm thế vô cùng ngạo nghễ và quyết đoán khi lựa chọn cho mình một con đường riêng. Một chốn ở thật yên bình, thanh tịnh: là một nơi không có tham lam sân si, cũng có những toan tính lợi danh, khiến Ông cảm thấy thật đúng đắn và thoải mái.

Hai câu đề đã vẽ nên một không gian sống nơi làng quê Đồng Bằng Bắc Bộ thật yên bình, dân dã của bậc ẩn sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nơi đây, không còn quyền uy của một bậc quan Trạng, cũng không còn sự khúm núm, e sợ của một kẻ thuộc hạ. Tất cả đã được cởi bỏ hoàn toàn, cả những ham muốn về danh vọng và tiền tài để chỉ còn đây là một lão nông Nguyễn Bỉnh Khiêm, với nhịp sống và lao động thường nhật như những người nông dân hiền lành, chất phác nhưng vô cùng lạc quan, vui tươi nơi làng quê.

Hai câu thực thể hiện một quan niệm sống, triết lí sống vô cùng mới mẻ: trở về với thiên nhiên để sống hòa hợp với thiên nhiên. Cũng có nghĩa là đã thoát khỏi vòng tranh đua của thói tục, không còn bị cuốn hút bởi tiền tài, địa vị; để tâm hồn được an nhiên, khoáng đạt:

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao.

Sự tài hoa của thi nhân được thể hiện qua việc sử dụng phép đối thật độc đáo: ta- người, dại- khôn nhằm nhấn mạnh thái độ sống mang tính triết lý sâu sắc, thâm trầm của thi nhân. Thực chất đây là một cách nói ngược để diễn tả sự coi thường lợi danh, nhằm chê bai lối sống tham vọng quyền lợi, tiền tài của bọn tham quan ô lại.

Chính bản thân nhà thơ đã nhiều lần khẳng định nghĩa dại – khôn bằng cách nói ngược này. Bởi những người tham vọng thường lấy lẽ dại- khôn để tính toán, tranh giành hơn thua, cho nên thực chất cách nói này để thể hiện những dục vọng thấp hèn của con người. Nơi vắng vẻ thực chất là một nơi yên ả với cuộc sống tươi mát hòa hợp với thiên nhiên hiền hòa, mang lại sự thảnh thơi cho tâm hồn con người.

Còn chốn lao xao chính là nơi với những thế lực cường quyền luôn dương oai để đua nhau tranh chấp quyền lực, đầy xa hoa phù phiếm. Nơi ấy khiến Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn phải e dè, sống lo sợ và thấp thỏm bởi lo cho sự an nguy của bản thân và gia đình.

Qua đó cũng thể hiện một sự đùa vui hóm hỉnh: dại mà thực chất là khôn, còn khôn mà hóa dại trong lối suy nghĩ độc đáo của nhà thơ. Trong một bài thơ Nôm khác, Nguyễn Bỉnh Khiêm viết:

Khôn mà hiểm độc là khôn dại,
Dại vốn hiền lành ấy dại khôn.

Qua câu thơ trên, người đọc càng hiểu rõ hơn về triết lí sống và một phong cách sống thật đáng ngưỡng mộ của một bậc Đại Nho với tư tưởng “lánh đục về trong”, hướng tới cuộc sống an nhàn, hạnh phúc, sống được là chính mình của thi nhân.

Cuộc sống của bậc đại nhân ở am Bạch Vân đạm bạc mà thanh cao khiến ai nấy đề xuýt xoa:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Bức tranh thiên nhiên bốn mùa về cuộc sống thanh tao, gắn bó hòa hợp với thiên nhiên của nhà Nho Nguyễn Bỉnh Khiêm ở chốn quê nhà hiện lên thật đáng ngưỡng mộ. Câu thơ hiện lên với hình ảnh của bốn mùa Xuân,Hạ, Thu, Đông và bức tranh về đời sống sinh hoạt vô cùng giản dị của nhà thơ.

Vốn là một vị quan Trạng đang ăn sung mặc sướng, hưởng bổng lộc của Triều đình thì giờ đây lại phải lao động, ăn uống “tự cung tự cấp” và sinh hoạt thật dân dã như những lão nông bình thường: ăn những thức ăn quê mùa, dân dã như măng trúc, giá đều là cây nhà lá vườn, do mình tự làm ra, là công sức của chính mình. Ăn đã vậy, còn ở, còn sinh hoạt? Một Ông Trạng nức tiếng giờ đây cũng tắm hồ sen, tắm ao chum như bao người dân quê khác.

Dù chỉ là những thói quen sinh hoạt hay cách ăn uống vô cùng giản dị nhưng lại gợi lên một cảm giác thật thoải mái, tâm hồn khoáng đạt của nhà thơ bởi lối sống thảnh thơi được thả hồn vào mọi thứ xung quanh, mà không cần luồn cúi, e sợ một kẻ nào. Nhờ nghệ thuật đối và cách ngắt nhịp 4/3 đã giúp gợi lên một phong thái nhịp nhàng, thong thả và yêu đời của thi nhân.

Hai câu thực đã vẽ nên một bức tranh cuộc sống bốn mùa đầy màu sắc tươi đẹp nhưng thật tươi mát và bình dị bởi trong đó có cảnh đẹp hồ sen và cả cảnh sinh hoạt của con người được tác giả tái hiện thật sống động ở am Bạch Vân. Đâu đó cũng toát lên một tâm thế yêu đời và rất lạc quan về một cuộc sống rất đỗi đạm bạc, giản dị mà vẫn thanh cao, tự do của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Nhãn quan nhạy bén và cái nhìn sáng suốt của nhà thơ đã được thể hiện tập trung nhất ở hai câu thơ cuối. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tìm đến cái “say” là để “tỉnh” và ông đã tỉnh táo hơn bao giờ hết:

Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Đến đây tác giả sử dụng điển tích giấc mộng đêm hòe:Coi phú quý tựa như một giấc chiêm bao để khẳng định một lần nữa sự lựa chọn lối sống “nhàn” của mình. Hai câu thơ đã thể hiện một nhân cách sống, một trí tuệ khác thường bởi Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sáng suốt nhận ra rằng công danh, của cải, quyền quý chỉ tựa như một giấc mộng chiêm bao, không bao giờ với tới được. Động từ “nhìn xem” đã thể hiện sự thức tỉnh một cách đúng lúc của thi nhân trong tư thế làm chủ hiên ngang của cuộc đời mình.

Hai câu thơ kết đã truyền đạt thật trọn vẹn ý nghĩa của quan niệm sống Nhàn đó là: biết từ bỏ những thứ xa xỉ như vinh hoa , lợi danh bởi vì đó chỉ như một giấc chiêm bao mà thôi. Ông khuyên con người đừng nên học theo thói xấu đó, và nên nhớ rằng chỉ có vẻ đẹp về nhân cách, tâm hồn trong sạch mới là vẻ đẹp đáng trân trọng và lưu giữ mãi về sau. Qua đó cũng toát lên vẻ đẹp nhân cách đạo đức của một bậc Nho sĩ đại tài Nguyễn Bỉnh Khiêm: Ông đã cởi mũ quan để về chốn thanh tịnh sống phần đời của chính mình, để giữ lại một nhân cách đáng trân quý. Quan điểm coi khinh danh lợi, xem đó là phù phiếm, hão huyền.

Bài thơ “Nhàn” chỉ với 8 câu thơ Đường luật với kết cấu chặt chẽ, tứ thơ đơn giản nhưng hàm ý sâu xa, đã khắc họa cho người đọc về một lí tưởng sống hiền tuệ, triết lý sống đầy tính nhân văn : vinh hoa phú quý chỉ như một giấc mộng phù du mà những con người hám lợi danh luôn chạy theo nhưng không bao giờ với tới nên Ông chọn cách rời xa chốn hư danh phàm tục đó để giữ cho thiên lương trong sạch mới là bậc đại trí, đại tài. Thông qua tác phẩm, chúng ta cũng thấy rõ về một tâm hồn yêu thiên nhiên, gắn bó với thiên nhiên, một cốt cách cao đẹp xứng đáng làm một tấm gương sáng cho bao thế hệ mai sau.

0
0
+3đ tặng

Trong văn học trung đại, có nhiều bài thơ hay và ý nghĩa của các thi sĩ đương thời. Trong đó bài Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong những bài thơ tiêu biểu, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn nhân cách của tác giả, tôn cao triết lí sống.

Bài thơ Nhàn được sáng tác trong hoàn cảnh tác giả về quê ở ẩn. Chữ “nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm không hề tầm thường như trong câu “nhàn cư vi bất thiện” mà là thái động sống, một triết lí sống của tác giả được bộc lộ rõ ràng. Bài thơ mang bốn triết lí sâu sắc gói gọn trong chữ “nhàn” được phân chia bố cục chặt chẽ. Mở đầu bài thơ tác giả viết:

Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào

Hai câu mở tạo ấn tượng đầu tiên với điệp ngữ “một” được lặp lại ba lần trong một dòng thơ mang tính chất liệt kê các sự vật quen thuộc: “mai”, “cuốc”, “cần câu” những vật dụng rất đỗi quen thuộc mang bóng dáng nhà nông chân chất vừa mang bóng dáng của một tao nhân mặc khách. Chỉ cần vậy thôi, ta đã cảm nhận được đây là một cuộc sống thư thái an nhàn của nhân vật trữ tình. Kết hợp với điệp ngữ “một” là từ láy “thơ thẩn” miêu tả được trạng thái của tác giả. Với dáng người ung dung, thoải mái, trạng thái tâm hồn thanh nhàn an nhiên không vướng bận chút bụi trần. Câu thơ như một lời thách thức của tác giả đối với người đời, mặc dù ai vui thú nào, ta đây vẫn vui thú an nhàn, vui cuộc sống thôn quê. Từ lời thách thức ấy toát lên sự ung dung trong phong thái, thanh thản trong tâm hồn, vui thu điền viên.

Đến với hai câu thực tiếp theo đã khái quát chân dung nhân vật trữ tình và triết lí “nhàn” của thi nhân:

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao

Ở đây ta thấy rõ được sự đối lập giữa các sự vật trong hai câu thơ “nơi vắng vẻ” là chốn thôn quê thanh bình, an nhàn vô âu vô lo, ở đó tâm hồn con người hòa nhập với thiên nhiên, còn “chốn lao xao” là nơi quan trường với những đua tranh ghen ghét của danh lợi, ồn ào phiền não. Phải chăng tác giả “dại” nên tìm nơi thôn quê, còn người đời “khôn” tìm đến chốn quan trường, nhưng thật chất ngược lại, xét trong câu thơ, “dại” có nghĩa là khôn, “khôn” có nghĩa là dại. Lối nói ngược mang ý nghĩa mỉa mai: người khôn mà chọn chốn lao xao đầy rẫy những tham lam, dục vọng, luôn phải suy nghĩ đắn đo, và như thế liệu có sung sướng? Phép đối hai câu thơ thực mang nghĩa mỉa mai chế giễu lũ người kia chỉ biết lao đầu vào tham vọng, vào vòng danh lợi. còn tác giả, ông phủ nhận vòng danh lợi ấy bằng cách thể hiện quan điểm, khí chất thanh cao trong sạch. “Nhàn” ở đây chính là cuộc sống thanh cao, tránh xa vòng danh lợi.

Không những tác giả chọn cuộc sống thanh cao, tránh xa tham vọng, tác giả còn hết mình hòa nhập với thiên nhiên, Đến với hai câu luận đã gợi mở cho người đọc về cuộc sống bình dị, giản đơn của nhân vật trữ tình:

Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao

Ai cũng biết măng, tre, trúc, giá là đồ ăn dân dã từ thiên nhiên rất dễ tìm thấy, gắn liền với cuộc sống của nhà nghèo nơi thôn dã đậm đà vị quê. Những thức ăn ấy trở nên quen thuộc mỗi ngày trong đời sống sinh hoạt, thu ăn măng trúc trên rừng, mùa đông về ăn giá. Đặc biệt câu thơ: “xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” đã phác họa hình ảnh quen thuộc ở làng quê, lối sinh hoạt dân dã. Khi trở về với thiên nhiên, với làng xóm, Nguyễn Bỉnh Khiêm thực sự hòa mình với thôn quê thuần hậu. Cuộc sống thanh đạm, mang lại thú vui an nhàn, thảnh thơi mùa nào thức nấy, đó là một cuộc sống được nhiều người ngưỡng mộ mà chẳng mấy ai có được. chính cảnh sinh hoạt đời thường ấy đã thể hiện sự đồng điệu nhịp bước của thiên nhiên và của con người. Hẳn phải sống hết mình, sống hòa hợp với thiên nhiên mới có sự đồng điều kì diệu như vậy.

Từ những thứ sinh hoạt đời thường ở những câu thơ trên thì đến với hai câu kết, tác giả đúc kết tinh thần, triết lí sống cao đẹp:

Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Trong câu thơ, tác giả có sử dụng điển tích “cội cây” ý muốn nói rằng phú quý công danh là thứ phù phiếm ,chỉ là áng phù vân trôi nổi có rồi lại mất như một giấc mơ mà thôi. Đó là một thái độ rất đáng trọng bởi Nguyễn Bỉnh Khiêm sống trong thời đại mà chế độ phong kiến bắt đầu khủng hoảng, nền tảng đạo đức nho giáo bị phá vỡ, rạn nứt, đó là thời đại mà con người lấy tiền làm thước đo cho mọi giá trị khác. Vậy, “nhàn” ở đây là coi thường vinh hoa phú quý. Và ta hiểu rằng “nhàn” ở đây là một triết lí sống chứ không phải quan niệm nhân sinh, không phải là cứu cánh mà chỉ là một phương thức tư duy. Bản chất chữ “nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải nhân tâm mà là nhân thân. Nhân mà vẫn phải âu lo việc nước. Nhàn là tìm kiếm sự thanh thản trong tâm hồn chứ không phải là lười nhác, suy cho cùng cũng là giữ gìn danh tiếng của mình, giữ tròn thanh giá của mình trong thời loạn, là lạc đạo vong bần giữ những phần tử gian xảo tranh đua danh lợi. Nhàn là không để dục vọng xấu xa làm mờ ám lương tâm, làm vẩn đục tâm hồn, không tham dự vào vòng danh lợi, còn lòng ái quốc sẽ không bao giờ nguội lạnh.

Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa triết lí và trữ tình thể hiện vẻ đẹp tâm hồn nhân cách ẩn sĩ Nguyễn bỉnh Khiêm, là một tâm hồn yêu thiên nhiên, hòa mình cùng thiên nhiên, phủ nhận danh lợi. Bài thơ mang một triết lí sống đẹp đẽ đáng nể, làm gương cho bao thế hệ mai sau.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo