LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Em hiểu ý kiến trên như thế nào. Qua Những câu hát than thân, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên

Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Qua Những câu hát than thân, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.

2 trả lời
Hỏi chi tiết
474
1
0
Bleene
13/02/2022 21:27:47
+5đ tặng

Hoài Thanh là một trong những cây bút nghiên cứu- phê bình văn học tinh tế, tài hoa ở Việt Nam từ những năm 30, 40 của thế kỉ XX; đồng thời cũng là người viết nhiều công trình có tính chất lý luận văn học, tổng kết kinh nghiệm nghiên cứu, phê bình văn học rất sắc sảo. Trong cuốn “Bình luận văn chương”, khi đề cập đến đặc trưng của văn chương, ông đã viết: “Văn chương… là hình dung của cuộc sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống”.

Chúng ta nên hiểu nhận định trên như thế nào?

Có thể thấy rằng, nhận định của Hoài Thanh gồm hai vế có mối quan hệ bổ sung ý nghĩa cho nhau.

Trước hết, Hoài Thanh khẳng định: “Văn chương… là hình dung của cuộc sống muôn hình vạn trạng”. Chữ “hình dung” ở đây được dùng như là danh từ (chứ không phải động từ), do đó có thể hiểu là “hình ảnh”, “bóng hình”. Nghĩa là ở vế thứ nhất, đây, tác giả nhấn mạnh đến một tính chất đặc trưng của văn chương: văn chương là tấm gương phản ánh hiện thực cuộc sống phong phú, đa dạng, nhiều màu sắc.

Còn ở vế thứ hai, tác giả bổ sung thêm quan điểm được nêu ra ở vế thứ nhất. Theo Hoài Thanh, văn chương không chỉ là tấm gương phản ánh hiện thực cuộc sống mà còn “sáng tạo ra sự sống”. Ở đây, tác giả nhấn mạnh đến một khả năng và cũng là sức mạnh kì diệu của văn chương: sức mạnh sáng tạo nên những hiện thực, những số phận bằng con đường tưởng tượng.

Nhận định của Hoài Thanh là kết quả được đúc rút từ kinh nghiệm thực tế trong nghiên cứu văn học, từ vốn văn học, vốn sống giàu có, phong phú của nhà văn. Nó mang sức nặng của một đời từng trải, từng say mê sống với những vẻ đẹp văn chương. Do đó tất yếu, những khái quát mang tính lý luận của nhà văn là hoàn toàn chính xác.

Điều đầu tiên không thể không ghi nhận là văn chương, xét về bản chất xã hội của nó, được coi là một trong những phương tiện phản ánh hiện thực cuộc sống một cách trung thực và sống động nhất. Bắt nguồn từ lao động, từ cuộc sống, văn chương lại hướng đến cái đích cuối cùng là quay trở về phản ánh và phục vụ cuộc sống. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh nhận định, đó là một “cuộc sống muôn hình vạn trạng”, tức là những mảng màu hiện thực đa chiều, đa dạng, đa màu sắc. Vậy nên nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng phát biểu: “Văn học và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”. Cuộc sống vừa là khơi nguồn, vừa là đối tượng phản ánh, vừa là đích đến của văn chương. . Đến với ca dao, dân ca, chúng ta sẽ thấy được đời sống tâm hồn, tình cảm phong phú mà tinh tế của nhân dân lao động xưa. Người bình dân đã gửi gắm vào những lời ca dao, vào tiếng hát dân ca trữ tình ngọt ngào ấy bao nỗi niềm tâm sự, bao cảm xúc, niềm vui và nỗi buồn, đau đớn xót xa hay đắm say hạnh phúc. Có khi, đó là những câu nói bình dị, thấm thía về “công cha, nghĩa mẹ”:

Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

Có khi, đó lại là lời nhắn gửi thiết tha về một tình nghĩa thủy chung, gắn bó sắt son, vẹn tròn:

Rủ nhau xuống bể mò cua

Đem về nấu quả mơ chua trên rừng

Em ơi chua ngọt đã từng

Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau.

Ta còn lắng nghe trong những lời ca trữ tình, mềm mại ấy cả tâm sự của người phụ nữ trong xã hội xưa về số phận đầy bất hạnh, éo le của họ:

Thân em như con hạc đầu đình

Muốn bay không cất nổi mình mà bay

Hay những lời xót xa, nuối tiếc trong câu ca dao:

Em tưởng nước giếng sâu, em nối sợi gầu dài

Ai ngờ giếng cạn em tiếc hoài sợi dây.

Và vượt lên tất cả là nghĩa tình thủy chung giữa người với người trong cuộc sống, là niềm lạc quan, tin tưởng vào tương lai:

Chớ than phận khó ai ơi

Còn da, lông mọc, còn chôi, nảy cây.

Có thể nói, ca dao, dân ca chính là tấm gương sáng trong phản ánh chân thực đời sống tinh thần, tư tưởng, tình cảm, cả những ước mơ và khát vọng bao đời của người bình dân xưa.

Đến với văn học trung đại Việt Nam, ta không thể quên tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ và Truyện Kiều của Nguyễn Du. Cả hai tác phẩm đều tập trung phản ánh thân phận bất hạnh, nhiều ngang trái, luôn bị vùi dập của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Nổi bật trong hai tác phẩm này là hình ảnh nàng Vũ Nương, vợ chàng Trương, trong Chuyện người con gái Nam Xương và hình ảnh Thúy Kiều, người con gái tài sắc vẹn toàn trong Truyện Kiều. Cả hai nhân vật này đều không chỉ “đẹp người” mà còn “đẹp nết”, có phẩm chất trong sáng, thủy chung, giàu tình nghĩa. Vậy mà họ lại phải chịu nhiều oan trái, đọa đầy. Nàng Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương”, chỉ vì chiến tranh mà phải xa chồng, rồi vì chế độ nam quyền độc đáo mà bị chồng nghi ngờ thất tiết, buộc phải tìm đến cái chết để giải oan cho mình. Nàng Kiều trong “Truyện Kiều” thì vì gia đình bị vu oan, không có tiên cứu cha và em mà nàng đành đau đớn từ giã mối tình đầu đẹp đẽ để bán mình cho tên lái buôn Mã Giám Sinh; rồi liên tiếp sau đó là những cảnh đoạn trường trong mười lăm năm gió bụi của đời Kiều, phải chịu số kiếp “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”, đã từng gửi thân vào cửa Phật để lánh bụi trần mà không được, cũng đã từng trầm mình xuống sông để thoát nợ đời mà cũng không xong. Thông qua số phận của những người phụ nữ bất hạnh ấy, các tác giả đã phản ánh chân thực hiện thực chế độ xã hội phong kiến ở thời kì đen tối trước đây, qua đó lên tiếng tố cáo những thế lực bất nhân đã vùi dập, chà đạp lên nhân phẩm của người phụ nữ. Đồng thời, những tác phẩm giàu tính hiện thực ấy cũng chính là những trang viết thấm đượm tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc, bởi nó bênh vực, ca ngợi con người, đòi quyền sống hạnh phúc cho người phụ nữ nói riêng, con người nói chung trong xã hội phong kiến.

Truyện ngắn Sống chết mặc bay của nhà văn Phạm Duy Tốn lại ra đời vào những năm hai mươi của thế kỉ XX. Dưới ngòi bút miêu tả hiện thực chân thực, tỉ mỉ, sinh động, qua nghệ thuật tương phản và tăng cấp tạo độ kịch tính cao, tác giả đã trực tiếp phơi bày bản chất vô trách nhiệm, nhẫn tâm, “lòng lang dạ thú” của quan phụ mẫu. Bên cạnh đó, tác phẩm còn phản ánh số phận của người dân lao động trong chế độ thực dân nửa phong kiến- số phận của những con người “thấp cổ . bé họng”, bị quan phụ mẫu coi không bằng một ván bài cao thấp. Ở đây, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo hòa quyện vào nhau, soi chiếu lẫn nhau.

Nhìn sang những nền văn học đồ sộ của các nước như Trung Quốc, Ấn Độ, Nga, Pháp, Mĩ…, chúng ta lại được dịp “du lịch” đến những vùng đất mới, trong nhiều khoảng thời gian khác nhau, qua các tác phẩm văn học. Từ bộ sử thi vĩ đại của người ấn “Ramayana” đến tác phẩm “AQ. chính truyện”, từ tiểu thuyết- sử thi “Chiến tranh và hòa bình” (Li-ép Tôn-xtôi) đến bộ tiểu thuyết lớn về “Những người khốn khổ” (Víc-to Huy-gô) hay “Tấn trò đời” (Ban-dắc)… đều là những tấm gương khổng lồ bao quát cả một thời kì lịch sử từ cổ xưa đến hiện đại, phản ánh biết bao cuộc đời, bao số phận con người trong những biến cố vĩ đại của lịch sử dân tộc.

Không chỉ phản ánh hiện thực cuộc sống và con người ở mọi thời kì, mọi vùng đất trên trái đất, văn chương còn có sức mạnh “sáng tạo nên hiện thực”. Bằng trí tưởng tượng phong phú đến kì diệu của mình, các nhà văn đã xây dựng nên những nhân vật, những thế giới hiện thực hoàn toàn mới lạ đối với kinh nghiệm của con người. Hiện thực được mở rộng, không chỉ là hiện thực chân xát, gần giống như hiện thực xã hội mà ta đang sống, mà hiện thực bị xóa mờ biên giới giữa hư và thực, tỉnh và mơ, cái bình thường và cái kì dị, khác thường…

Không phải ngẫu nhiên mà trẻ em ở bất cứ nơi nào trên thế giới cũng đều say mê truyện cổ tích. Trong những câu chuyện đó, bên cạnh những con người bình thường, cũng sinh hoạt, nói năng như chúng ta hiện nay, còn xuất hiện rất nhiều những yếu tố kì ảo (ví dụ như các phương tiện thần kì như lọ nước thần, nỏ thần, cái gậy thần…; hay các ông Bụt, bà Tiên, những mụ phù thủy…; rồi những phép biến hóa thân kì…). Đối với đa số trẻ em, truyện cổ tích là cả một thế giới huyền diệu, hấp dẫn, kích thích trí tưởng tượng và cảm xúc phong phú của trẻ thơ Xây dựng những thế giới kì ảo với những nhân vật mang tính chất thần kì, nhân dân lao động đã gửi gắm ước mơ, hy vọng của mình về một thế giới tốt đẹp hơn, nhân văn hơn và thể hiện trí tưởng tượng bay bổng của con người.

Tiểu thuyết Hai vạn dặm dưới đáy biển của Jules Verne mang đậm màu sắc truyện khoa học viễn tưởng. Viết về một thế giới với những điều kì lạ của đại dương, tác phẩm ca ngợi khát vọng khám phá, chinh phục tự nhiên kì vĩ và bí ẩn của con người.

Tiểu thuyết Dế mèn phiêu lưu ký của Tô Hoài lại xây dựng thế giới của các loài vật đa dạng và sống động; các nhân vật đều có hành động, ngôn ngữ, có suy nghĩ, tình cảm, khát vọng… như con người. Bạn đọc say sưa dõi theo câu chuyện về cuộc phiêu lưu của chú Dế mèn, Dế trũi, của Bọ ngựa, Châu chấu, Kiến vàng… Đó là thế giới do nhà văn sáng tạo ra nhưng mang dáng dấp, hình bóng của thế giới con người.

Truyện ngắn Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu của Nguyễn Ái Quốc thì dựng nên một cuộc gặp gỡ mang tính tưởng tượng giữa hai nhân vật Va-ren và Phan Bội Châu để thể hiện bản chất của hai nhân vật đó. Mặc dù vào thời điểm tác giả viết truyện, Toàn quyền Varen chưa đến Việt Nam, cuộc gặp gỡ giữa hai người chưa diễn ra, nhưng tác giả đã hình dung nên cuộc gặp giữa Va-ren và Phan Bội Châu ngay trong nhà giam, qua đó phơi bày bộ mặt giả dối, xảo trá và đê hèn đến thảm hại của Va-ren cũng như ca ngợi vẻ đẹp của khí phách và tư thế hào hùng, lẫm liệt của nhà Cách mạng yêu nước Phan Bội Châu.

Như vậy, có thể nói, nhận định của Hoài Thanh về bản chất phản ánh và sáng tạo hiện thực của văn chương rất đúng đắn, chính xác.

Tuy nhiên, cũng cần phải khẳng định rằng, văn chương dù viết về người hay về loài vật, về cây cỏ, dù mang tính hiện thực hay tưởng tượng, suy cho cùng, đều là sự soi chiều đời sống hiện thực và tâm tư, tình cảm, ước vọng của con người. Ví như đọc truyện cổ tích, ta có cảm giác bước vào một thế giới vừa thực, vừa kì ảo. Dùng những phép biến hình, những công cụ thần kì, nhân dân ta đã gửi gắm ước mơ về một hiện thực tốt đẹp hơn thế giới thực của họ. Còn ở những tác phẩm khoa học viễn tưởng, ta có thể thấy được yếu tố hiện thực của tư tưởng con người, của khát khao khám phá, chinh phục tự nhiên và phần nào đã trở thành hiện thực. .

Một điều cũng có thể thấy rõ là một tác phẩm văn học chân chính không bao giờ sao chép “nguyên xi” hiện thực mà là hiện thực đã được soi chiếu qua “lăng kính nghệ thuật”, thấm đẫm tính chủ quan của nhà văn. Dựa trên chất liệu hiện thực mà cũng có yếu tố tưởng tượng, sáng tạo trong đó. Hiện thực trong tác phẩm là hiện thực đã được chọn lọc và tái tạo lại qua cái nhìn của các nhà văn.

Văn chương còn mang đặc trưng về phương tiện phản ánh và sáng tạo. Nếu như hội họa dùng màu sắc và đường nét làm chất liệu; điêu khắc dùng hình khối và những vật liệu cụ thể, hữu hình khác; điện ảnh dùng ánh sáng, âm thanh; âm nhạc dùng giai điệu và ngôn từ làm chất liệu thì văn chương lại được coi là “nghệ thuật của ngôn từ”.

Hiện thực trong văn chương là hiện thực được phản ánh và sáng tạo thông qua ngôn ngữ nghệ thuật đa dạng, đẹp đẽ, đạt đến độ kết tinh. Mặc dù ngôn ngữ mang tính chất phi vật thể, nhưng nó lại có tính hình tượng, tính biểu cảm và truyền cảm sâu sắc. Nhờ đó mà hiện thực được phản ánh và sáng tạo trong văn chương trở nên sống động, giàu sức gợi và hấp dẫn người đọc hơn bao giờ hết. . Xưa, có những nhà nho đọc sách văn chương mà rung động, say sưa đến mức quên ăn, quên ngủ, thấy tâm trí rạng rỡ, cảm xúc dồi dào. Ngày nay, mỗi học sinh chúng ta cũng nên dành một khoảng thời gian trong ngày để đến với thế giới của văn học, để bồi đắp những tư tưởng, tình cảm phong phú cho bản thân và nhận thức những điều kì diệu mà văn chương mang đến cho chúng t

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
hi
13/02/2022 21:29:20
+4đ tặng

 Ca dao - dân ca phản ánh sinh động đời sống tinh thần phong phú của nhân dân lao động. Họ đã gửi gắm vào đó tiếng nói tâm tình chân thành tha thiết, với đủ mọi cung bậc buồn vui. Nhiều câu ca dao về hình thức và nội dung có những nét giống nhau nhưng mỗi câu lại mang một vẻ đẹp riêng, phù hợp với từng hoàn cảnh và tâm trạng khác nhau. Ví dụ một loạt câu mở đầu bằng cụm từ Thân em mà nội dung cùng đề cập đến phẩm chất tốt đẹp, cao quý và số phậm hẩm hiu, bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến ngày xưa.

-  Thân em như củ ấu gai,

Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen.

   Ai ơi nếm thử mà xem!

Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi.

-  Thân em như tấm lụa đào, 

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?

Em ngồi cành trúc, em tựa cành mai,

Đông đào tây liễu, biết ai bạn cùng?

-  Thân em như hạt mưa rào,

Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa.

   Thân em như hạt mưa sa,

Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.

-  Thân em như giếng giữa đàng,

Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân.

-  Thân em như đóa hoa rơi,

Phải chăng chàng thật là người yêu hoa?!

-  Thân em như con hạc đầu đình,

Muốn bay không cất nổi mình mà bay!

       Ngậm ngùi, buồn thương, xót xa, cay đắng là cảm xúc chung bao trùm lên những câu ca ấy, khiến nó giống như tiếng thở dài than thân trách phận; tiếng khóc thầm tủi hờn, uất ức của người phụ nữ trước tình cảnh ngang trái, bất công. Trong xã hội phong kiến, họ bị tước đoạt quyền tự do, quyền được sống hạnh phúc và buộc phải phó mặc cuộc đời mình cho sự may rủi ngẫu nhiên của số phận. Cho dù bên trong cái hình thức xấu xí, đen đủi như củ ấu gai là phẩm chất tốt đẹp vừa ngọt vừa bùi nhưng chắc gì người đời đã nhận ra?! Cho dẫu đẹp đẽ như tấm lụa đào đi chăng nữa thì vẻ đẹp ấy chưa chắc là cơ sở bảo đảm cho hạnh phúc. Giống như những hạt mưa từ trời cao rơi xuống, số phận của mỗi người con gái một khác. May rủi cuộc đời có thể đưa họ đến những cảnh ngộ trái ngược trong cuộc sống. Có người được trân trọng, có người bị ngược đãi, cũng như nước cùng một giếng mà người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân. Giống như con hạc đầu đình, người phụ nữ bị trói chặt vào số phận hẩm hiu, dẫu có muốn thay đổi cũng chỉ là ao ước mà thôi.

      Sáu câu ca dao với những cách so sánh khác nhau nhưng cùng nói lên một thực trạng: quyền sống của người phụ nữ xưa kia, mà trước hết là quyền tự do hoàn toàn bị phủ nhận. Đó chính là nguồn gốc của mọi đau khổ, ngang trái mà họ phải chịu đựng trong suốt cuộc đời.

      Sáu câu ca dao là sáu tiếng than thân ngậm ngùi, chua xót. Bởi xét cho cùng, dẫu có tấm lụa đào nào được vào tay khách quý, có hạt mưa sa nào được vào chốn đài các, có nước giếng nào được đêm rửa mặt, thì cũng là nhờ may mắn mà sự may mắn thì thật hiếm hoi. Trong bao nhiêu tấm lụa đào, bao nhiêu hạt mưa sa, bao nhiêu nước giếng mới có được một số phận sáng tươi? Cho nên đau khổ vẫn là tình trạng chung phổ biến nhất của người phụ nữ.

      Những câu ca dao trên chính là tiếng than thân cất lên từ cuộc đời như thế. Than vãn mà không oán trách, bởi vì biết oán trách ai? Rốt cuộc, đành cho rằng đó là định mệnh. Cho hay muôn sự tại trời, không thể nào thay đổi được.

      Cả sáu câu ca dao hầu như cùng một khuôn mẫu về nội dung, về kết cấu. Mở đâu bằng thân em, tiếp theo là sự vật được đem so sánh. Còn những câu dưới là mượn tính chất của sự vật ấy để chỉ thân phận người phụ nữ. Tuy nhiên, trên cơ sở giống nhau về ý nghĩa, mỗi câu ca dao lại khác nhau ở hình ảnh được đem ra so sánh và chính cái đó đã tạo nên sắc thái của từng câu.

     Ta sẽ lần lượt phân tích từng câu để thấy cái hay, cái đẹp trong ý nghĩa và hình thức biểu hiện.

Thân em như củ ấu gai,

Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen.

Ai ơi nếm thử mà xem!

Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi.

     Người phụ nữ ngày xưa bị ràng buộc bởi lễ giáo khắt khe cùng những hủ tục, định kiến nặng nề của xã hội trọng nam khinh nữ. Quan niệm nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô: (Một con trai cũng là có, mười con gái cũng là không). Nữ nhân ngoại tộc: (Con gái là người ngoài họ tộc). Hay: Khôn ngoan cũng thể đàn bà, Dẫu rằng vụng dại cũng là đàn ông... đã đẩy người phụ nữ vào vị trí thứ yếu trong gia đình và xã hội.

     Quan niệm sai lệch ấy ảnh hưởng không ít tới cách suy nghĩ của chị em phụ nữ, tạo ra trong họ một mặc cảm tự ti, tiêu cực. Người phụ nữ nông dân vất vả, lam lũ quanh năm thì so sánh:

Thân em như củ ấu gai,

Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen.

     Cái củ ấu gai góc, xấu xí ấy sống dưới bùn sâu, chẳng mấy ai để ý tới, dẫu rằng bên trong nó vừa trắng. vừa ngọt, vừa bùi.

Thân em như tấm lụa đào, 

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?

Em ngồi cành trúc, em tựa cành mai,

Đông đào tây liễu, biết ai bạn cùng?

      Người phụ nữ xưa tự nhận thức và đánh giá đúng đắn về phẩm chất tốt đẹp của mình và khẳng định điều đó qua ẩn dụ so sánh đầy tính nghệ thuật: Thân em như tấm lụa đào...

      Tấm lụa đào đẹp từ chất liệu, dáng vẻ đến màu sắc bởi được dệt nên từ loại tơ tằm tốt nhất. Lụa nhẹ, mềm và rất mát, mặc vào thì người đẹp hẳn lên. Lụa màu hoa đào vừa đẹp vừa quý nhưng khi đem bán thì cũng phải bày ra giữa chốn "trăm người bán, vạn người mua", đủ loại người sang kẻ hèn, người thanh kẻ tục, không biết sẽ vào tay ai? Lụa tuy đẹp thật nhưng đã chắc gì có người biết đánh giá đúng giá trị của nó! Hình ảnh tấm lụa đào gợi lên vẻ thanh xuân mơn mởn, tràn đầy sức sống của một cô gái đương thì, nhưng hình ảnh tấm lụa đào phất phơ giữa chợ lại có một cái gì đó thật trớ trêu, tội nghiệp. Nỗi băn khoăn, lo lắng là rất thực. Quả là hoàn cảnh khách quan chi phối rất nhiều, có khi quyết định số phận của cả một đời người.

Thân em như hạt mưa rào,

Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa.

Thân em như hạt mưa sa,

Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.

      Hình ảnh hạt mưa sa lại gợi lên một sắc thái tình cảm khác. Người phụ nữ cảm thấy thân phận mình quá ư nhỏ bé. Có bao nhiêu hạt mưa từ trời cao rơi xuống trong một cơn mưa?! Mọi hạt mưa đều trong trẻo, mát lành như nhau nhưng chỗ rơi xuống – tức số phận của từng hạt mưa lại không giống nhau. Sự rủi may của hoàn cảnh không thể nào đoán định trước được. Nó có thể dẫn đến những điều trái ngược hoàn toàn trong cảnh ngộ. Giữa muôn ngàn hạt mưa, một số hạt đã may mắn hơn, không rơi xuống giếng, không vào vườn hoa, không mất hút vào luống cày mà lại rơi vào chốn lầu son gác tía (đài các). Bài ca dao này quả là một bức tranh sinh động về thân phận bấp bênh của người phụ nữ xưa kia.

      Nếu không may rơi vào hoàn cảnh trớ trêu, họ chỉ có một cách lựa chọn là cúi đầu chấp nhận. Dân gian đã ví: Thân con gái mười hai bến nước, trong nhờ, đục chịu, bởi vì người phụ nữ đã bị bao điều đè nén, ràng buộc, bị tước đoạt quyền tự do, quyền làm chủ bản thân. Quy định tam tòng: Tại gia tòng phụ, Xuất giá tòng phu, Phu tử tòng tử không cho họ được sống theo ý mình mà hoàn toàn phụ thuộc vào người khác. Dẫu biết là vô lí, bất công cũng vẫn phải nhẫn nhục, cam chịu.

ADVERTISING



X

Thân em như giếng giữa đàng,

Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân... 

    Câu này lấy hình ảnh so sánh là cái giếng giữa đàng vốn rất quen thuộc với làng xóm ngày xưa. Vì là giữa đàng nên có nhiều người qua lại và tất nhiên có người khôn (người tốt, người có con mắt tinh đời...), có người phàm (kẻ tầm thường, bần tiện...). Cách sử dụng nước giếng hoàn toàn do mục đích, thái độ của từng người. Rửa mặt với rửa chân là hai hình ảnh tương phản thật sinh động và ý vị.

Thân em như đóa hoa rơi,

Phải chăng chàng thật là người yêu hoa?!

       Đây là hình ảnh so sánh độc đáo và tinh tế, thể hiện mặc cảm về thân phận bất hạnh, về sự dở dang trong hôn nhân. Thân em không phải đóa hoa xinh tươi còn ở trên cành mà đóa hoa héo úa, tàn phàn đã rụng rơi dưới đất. Trong hoàn cảnh đáng buồn ấy, người phụ nữ chỉ biết bám víu vào một hi vọng mong manh: Phải chăng chàng thật là người yêu hoa?!

Thân em như con hạc đầu đình,

Muốn bay không cất nổi mình mà bay.

      Tác giả dân gian đã chọn lựa được một hình ảnh so sánh có khả năng gợi cảm và liên tưởng rất cao. Con hạc đầu đình là một vật dụng để thờ, thường được làm bằng gỗ hay bằng đồng, được đặt ở nơi đền, miếu, đình, chùa... Nhìn những con hạc ấy rồi ngẫm đến thân phận của mình, người phụ nữ thấy có những nét tương đồng. Con hạc kia dẫu có muốn bay thì cũng không thể cất nổi mình mà bay. Trong suốt cuộc đời, người phụ nữ phải cắn răng chịu đựng bao đau thương, tủi nhục. Nếu có thở than thì tiếng thở than của họ cũng không thể thấu tới trời xanh. Cái vòng luẩn quẩn, nghiệt ngã của số phận trói buộc họ, khó bề thoát khỏi. Dù họ có muốn vùng dậy để cắt đứt, phá bỏ những xiềng xích vô hình ấy thì cũng không dễ dàng gì. Câu ca dao chứa đựng niềm khát khao cháy bỏng và một nỗi bất bình sâu sắc.

      Những bài ca dao trên là tiếng nói than thân trách phận của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến hà khắc xưa kia. Nhân vật không phải là một cá nhân cụ thể mà là trăm ngàn phụ nữ cùng chung cảnh ngộ, cuộc đời giống như chuỗi bi kịch kéo dài. Với họ, hạnh phúc chỉ là một cái gì đó rất mơ hồ, khó hình dung và càng khó mà đạt được.

      Những câu ca dao bày tỏ tâm tình tha thiết, chân thành như trên có sức lay động lòng người rất lớn. Ai cũng có thể cảm nhận được từ đấy một chút cảnh ngộ, một chút tâm sự của mình. Vậy chúng ta nên cắt nghĩa như thế nào cho hợp lí về sự song song tồn tại của những câu ca dao vừa giống nhau, vừa khác nhau đó?

     Trước hết, ca dao được sáng tác bởi nhiều người khác nhau, ở những thời kì khác nhau, trên những vùng đất khác nhau. Gặp cảnh ngộ đắng cay, người nông dân xưa hay liên hệ số phận mình với một hình ảnh tương tự nào đó, thế là một câu ca dao ra đời. Câu ca dao ấy vừa chất chứa tâm tư, vừa mang dấu ấn thực tế cuộc sống của người sáng tác.

      Không hẹn mà nên, cái chung của số phận người phụ nữ đã làm cho những câu ca dao gặp nhau ở cùng một nội dung ý nghĩa.

     Mặt khác, ngay cả khi trong tâm trí có sẵn một câu ca dao cũ, nhưng trong cảnh ngộ cụ thể, người làm thơ dân gian vẫn muốn nói lên một điều gì đó cho riêng mình. Cho nên mới lần lượt xuất hiện những câu ca dao nội dung gần giống nhau mà hình thức thì khác đi đôi chút. Đó không đơn giản chỉ là sự lặp lại mà là phát triển và bổ sung thêm cho cái đã có thêm đa dạng, phong phú.

      Tuy nghệ thuật có nhiều chỗ giống nhau như ở cách mở đầu, cách ví von, so sánh, ẩn dụ và giống nhau ở cảm xúc chung nhưng mỗi câu ca dao vẫn lấp lánh một vẻ đẹp riêng. Điều đáng nói là chỉ sau vài lần ngâm nga thưởng thức, người đọc sẽ không thể nào quên bởi cái hay, cái đẹp của nó đã thấm vào máu thịt tự lúc nào chẳng rõ.

      Chỉ xét riêng sáu câu ca dao có chung cách mở đầu bằng Thân em, chúng ta cũng thấy được ca dao đúng là sản phẩm của tài năng và tâm hồn phong phú của nhân dân lao động. Những câu ca dao ấy giúp ta hiểu được nỗi cay đắng ngậm ngùi mà người phụ nữ Việt Nam ngày xưa đã phải trải qua và thêm thông cảm, đồng tình với khát vọng cất mình mà bay của họ.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 7 mới nhất
Trắc nghiệm Ngữ văn Lớp 7 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư