Để chia thừa kế trong các trường hợp, ta cần xác định nguyên tắc cơ bản của pháp luật về thừa kế:
Tài sản chung: Tài sản của vợ chồng sẽ được chia đôi trước khi tính thừa kế, trừ khi có thỏa thuận khác. Do đó, khối tài sản chung 600 triệu đồng của ông A và bà B sẽ chia đôi, mỗi người sở hữu 300 triệu đồng.
Di sản thừa kế: Phần di sản thừa kế của bà B là 300 triệu đồng (phần tài sản của bà B sau khi chia đôi tài sản chung).
Hàng thừa kế: Theo quy định, hàng thừa kế thứ nhất gồm: cha, mẹ, vợ, chồng, con của người chết. Nếu có di chúc, di sản sẽ được phân chia theo di chúc; nếu không, sẽ chia theo pháp luật.
a. Bà B để lại di chúc cho em trai là T hưởng toàn bộ tài sản:
Theo di chúc, toàn bộ di sản của bà B (300 triệu đồng) sẽ thuộc về em trai T.
Tuy nhiên, pháp luật quy định những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc (Điều 644 Bộ luật Dân sự) gồm: cha, mẹ, con chưa thành niên hoặc con không có khả năng lao động. Trong trường hợp này:
D sinh năm 2008 (14 tuổi, chưa thành niên) nên vẫn được hưởng phần thừa kế bắt buộc bằng 2/3 suất thừa kế theo pháp luật.
Hàng thừa kế thứ nhất gồm ông A, C, D. Nếu chia theo pháp luật, mỗi người được hưởng 300 triệu ÷ 3 = 100 triệu.
Do đó, phần thừa kế bắt buộc của D là:
2/3 × 100 triệu = 66,67 triệu.
Sau khi trừ đi phần thừa kế bắt buộc của D, phần còn lại là:
300 triệu − 66,67 triệu = 233,33 triệu, thuộc về T.
Kết quả:
T: 233,33 triệu.
D: 66,67 triệu.
Ông A và C: Không được hưởng.
b. Bà B để lại di chúc cho C hưởng ½ di sản, D hưởng ½ di sản, truất quyền thừa kế của ông A:
Theo di chúc, di sản của bà B (300 triệu) sẽ được chia như sau:
C hưởng ½ di sản = 300 triệu ÷ 2 = 150 triệu.
D hưởng ½ di sản = 300 triệu ÷ 2 = 150 triệu.
Việc truất quyền thừa kế của ông A là hợp pháp, do vậy ông A không được hưởng di sản.
Kết quả:
C: 150 triệu.
D: 150 triệu.
Ông A: Không được hưởng.