1. Chiêng (cêng)
Chiêng thường được sử dụng theo bộ chiêng hai và ba. Khi trình tấu, người chơi phải thuộc, hiểu từng bài chiêng để không chỉ đánh đúng nhịp điệu, tiết tấu mà còn thể hiện sắc thái tình cảm của mỗi bài. Chiêng ba thường trình tấu theo các làn điệu dân ca, dân vũ nổi tiếng của người Chu ru như Aria, Păgơnăng, T’run pô, Lơgăr taptung, Pró pơl… Chiêng đôi không có bài cụ thể, chủ yếu được diễn tấu theo tâm trạng của người chơi, khi thì nhẹ nhàng sâu lắng như muốn gửi gắm những mong ước tốt đẹp; khi thì rộn rã tưng bừng như lời động viên, thúc giục ý chí vươn lên trong cuộc sống.
2. Trống (sơng gơr)
Người Chu ru có 3 loại trống: trống lớn, trống trung và trống nhỏ. Trống lớn thường dùng trong các dịp lễ hội hoặc đi săn để làm hiệu lệnh hoặc xua đuổi thú; trống trung, trống nhỏ thường trình tấu chung với một số nhạc cụ khác trong sinh hoạt gia đình hay cộng đồng… Thân trống làm từ một thân cây, được đục rỗng bên trong hoặc ghép các thanh gỗ lại với nhau. Mặt trống được bịt bằng da nai hoặc da trâu rừng, căng bởi đinh tre và dây mây.
Hòa chung với các bài chiêng, trống của người Chu ru có vai trò giữ nhịp, làm cho bước nhảy và những đôi tay thêm uyển chuyển, nhịp nhàng theo điệu múa.
3. Kèn bầu (Lơker)
Đây là nhạc cụ hơi tiêu biểu của người Chu ru. Kèn được làm từ vỏ trái bầu và 6 ống nứa gắn lại với nhau bằng sáp ong. Một chiếc kèn bầu đẹp và âm thanh như ý muốn phải được làm từ trái bầu già, tròn đều; các ống nứa có độ già vừa đủ. Đặc biệt, để tạo âm thanh chuẩn, sắc nét đòi hỏi kinh nghiệm, sự khéo léo của nghệ nhân khi chế tác từng chiếc lá đồng mỏng gắn vào mỗi ống nứa.
Kèn bầu có thể độc tấu hoặc hợp tấu cùng chiêng, trống trong các lễ hội mừng lúa mới, mừng nhà mới, lễ bỏ mả, với các điệu múa truyền thống. Ngoài ra, kèn bầu còn được các thanh niên trong làng dùng để thi tài hay thổ lộ tình cảm. Tiếng kèn nhẹ nhàng, sâu lắng đi vào lòng người, nhắc nhở người già, con trẻ nhớ về quá khứ, về công lao của những người đã khuất trong lễ bỏ mả, hướng tới một tương lai tốt đẹp, bình an, hạnh phúc...Sáo (Tơ lía)
Sáo được làm từ ống nứa, có độ dài từ 40 - 70cm, thường có hai loại, gồm sáo 3 lỗ và sáo 2 lỗ. Ống nứa được chọn làm sáo khi gõ phải phát ra tiếng vang và thanh. Sự độc đáo của cây sáo thể hiện qua việc làm đầu thổi. Đầu thổi được gọt vát bên dưới một góc 600 gần sát đốt ống nứa, phía trên vát mỏng sau đó gắn thêm một thanh nứa, hai bên của đốt được khoét lỗ để tạo âm. Cách thổi sáo của người Chu ru khá độc đáo, bởi cách tạo âm thanh, giai điệu nhẹ nhàng qua các đầu ngón tay. Riêng với sáo hai lỗ, người thổi sẽ để đầu thoát âm của sáo vào miệng bình gốm nhỏ, tạo ra âm thanh trầm ấm, biểu lộ tâm trạng, cảm xúc của người chơi qua âm điệu, tiết tấu nhanh hay chậm, rộn rã hay dìu dặtĐàn tre
Đàn tre của người Chu ru mang dáng dấp cây đàn Cha pi của người Rắc lây. Độc đáo của chiếc đàn tre thể hiện qua bộ dây được làm từ chính phần vỏ ống tre. Nghệ nhân dùng mũi dao sắc nhọn để tách vỏ ống tre thành dây đàn, mỗi sợi dây cách nhau khoảng 1,5 - 3cm và dày khoảng 0,2 - 0,3cm, sau đó dùng các thanh tre chèn vào các đầu của mỗi dây để định âm. Ống tre chính là bộ phận cộng hưởng và nghệ nhân tạo lỗ thoát âm ở hai đầu hoặc giữa thân đàn tùy theo sở thích. Người Chu ru chơi đàn tre mọi lúc mọi nơi. Khi gẩy đàn, người chơi như thả hồn vào giai điệu và âm thanh bập bùng, trầm bổng giữa núi rừng Tây Nguyên