Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Cảm nhận của anh/chị về cảm xúc của nhân vật khách trong đoạn trích sau

Cảm nhận của anh/chị về cảm xúc của nhân vật khách trong đoạn trích sau:
Khách có kẻ:
Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết.
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt.
Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết.
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.
Bèn giữa dòng chừ buông chèo,
Học Tử Trường chừ thú tiêu dao.
Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều.
Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu.
Nước trời một sắc, phong cảnh: ba thu.
Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu
Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô.
Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu!
2 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
577
3
0
Bùi Khắc Trí
10/03/2022 10:16:19
+5đ tặng

Nhân vật khách là sự hoá thân của tác giả. Nhân vật có thú du ngoạn là để thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên, sống với thiên nhiên và để nghiên cứu tìm hiểu lịch sử đất nước. Hai câu đầu cho thấy niềm say mê vui thú gió trăng với tâm hồn khoáng đạt, rộng mở. Những địa danh Trung Hoa được nhắc đến cho biết thêm, tác giả cũng đã du ngoạn xứ người qua sách vở, tưởng tượng. Tâm hồn và tri thức nhờ đó mà được bồi dưỡng khá phong phú. Thế nhưng vẫn chưa toại nguyện, tác giả còn khát khao “vẫy vùng” trong bể tri thức cho thoả tráng chí: Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.

Tác giả cho rằng mình học Tử Trường (Tư Mã Thiên) đi thú tiêu dao. Điều đó có nghĩa là tác giả không chỉ say mê thiên nhiên đẹp mà còn có ý thức tìm hiểu lịch sử dân tộc, muốn sưu tầm lưu giữ những kì tích, chiến công của nhân dân bao thế hệ mà có thể sử quan triều đình chưa biết hết. Ý thức lịch sử, tinh thần dân tộc của học giả thật đáng ca ngợi. Trở về với những danh thắng của đất nước, tác giả không khỏi sung sướng và tự hào:

Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều,

Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều.

Bát ngát sóng kình muôn dặm,

Thướt tha đuôi trĩ một màu.

Đây là điểm đến mà tác giả từng chờ đợi, ao ước nên bây giờ tận mắt chiêm ngưỡng mới thật hào hứng, mới thấy hết vẻ hùng tráng và không khí tấp nập ghe thuyền buôn bán của miền đất trù phú. Nếu làm phép so sánh ngầm về danh thắng giữa nước ta với Trung Hoa sẽ thấy tác giả rất đỗi tự hào vì đất nước mình cũng có những danh thắng đâu kém gì. Nhưng tác giả không chỉ đến đây ngắm cảnh mà còn tìm hiểu lịch sử nên nhìn dòng sông qua lớp sóng thời gian, thấy đâu đó trong không gian như còn lưu giữ hình ảnh chiến địa hoang tàn cùng với những ánh hùng chiến trận nay đã thành người thiên cổ:

Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu.

Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô,

Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu.

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu!

Âm hưởng lời ca trầm lắng, suy tư mở ra cảnh đẹp bát ngát, trong sáng êm ả nhưng ảm dạm, đìu hiu. Lời ca chứa đựng mối u hoài, mặc tưởng. Trong đó phảng phất nỗi buồn thương cho vật đổi sao dời: chiến trường oanh liệt, những dũng tướng oai hùng đã phai nhoà theo dấu vết thời gian. Nỗi thương tiếc quá khứ ấy đã biểu hiện tấm lòng yêu kính tiền nhân. Hình ảnh khách hiện lên trong đoạn đầu có tâm hồn đẹp và giàu ý thức dân tộc.

Chiến trận Bạch Đằng xưa hiện ra qua lời kể của các bô lão. (Từ câu: Bền sông các bô lão… đến câu: Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh). Bô lão là nhân vật tập thể, là người địa phương, nhưng cũng có thể là tác giả. Thái độ của bô lão với khách: vừa tôn kính (vái tạ) vừa nhiệt tình, hăm hd kể chuyện xưa. Họ cũng hãnh diện tự hào về quê hương lịch sử của mình qua câu ca dài hơi như lịch sử giữ nước:

Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt

Ô Mã cũng là bãi đất xưa, thuở trước

Ngô chúa phá Hoằng Thao.

Họ dã tái hiện cảnh chiến trường qua bút pháp chấm phá:

Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới

Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói.

Trận đánh được thua chửa phân,

Chiến lũy bắc nam chống đối.

Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,

Bầu trời chừ sắp đổi.

Cách kể chuyện khá tài hoa, cô đọng, chỉ điểm qua những nét chính mà dựng cả quang cảnh, diễn biến và không khí chiến trường. Cuộc chạm trán trên sông thật dữ dội hoành tráng, trận kịch chiến đối đầu giằng co quyết liệt, long trời lở đất, mịt mù khói lửa. Biện pháp thậm xưng đã thể hiện khí thế ngất trời, cuối cùng chiến thắng vẻ vang thuộc về quân ta, làm nổi rõ “hào khí Đông A” một thời. Lời bình của người kể:

– Bọn giặc tham lam, bất nghĩa nên thất bại. Đó là nỗi nhục của quân thù không thể phai và là tấm gương soi cho lịch sử: Đến nay nước sông tuy chảy hoài Mà nhục quân thù khôn rửa nỗi! Ta chiến thắng tưng bừng là nhờ địa thế hiểm trở và nhờ nhân tài. Lời bình vừa tự hào vừa khâm phục, ca ngợi lịch sử giữ nước hào hùng:

Quả là: Trời đất cho nơi hiểm trở,

Cùng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an.

So sánh trận Bạch Đằng với những trận chiến nổi tiếng của Trung Hoa như Xích Bích, Hợp Phì, là cho thấy sự nổi tiếng và tầm oanh liệt ngang nhau, khẳng định trang trọng tài trí Ngô Quyền và vua tôi nhà Trần là bất tử. Sự so sánh còn thể hiện niềm tự hào dân tộc. Đoạn phú tự sự đậm chất sử thi, anh hùng ca và niềm tự hào lịch sử qua giọng kế hào hứng, dõng dạc, trang nghiêm,

Lời ca cuối của các bô lão:

Sông nước hùng vĩ chảy muôn đời.

Anh hùng chính nghĩa sẽ để tiếng thơm cho muôn sau.

Đó là chân lí vĩnh viễn. Lời ca sảng khoái, tự hào vang mãi cùng sông nước và hình bóng các bô lão cũng theo thuyền khuất dần sau bờ lau cao.

Lời ca của khách điệp theo: (Còn lại)

Anh minh hai vị thánh quân

Sông đây rửa sạch hai lần giáp binh.

Giặc tan muôn thuở thanh bình

Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.

Tác giả cũng ca ngợi công đức, tài năng của hai vị vua nhà Trần: Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông nhưng khác với các bô lão, Trương Hán Siêu đề cao vai trò của con người chứ không phải nhờ địa thế hiểm yếu và bổ sung lẽ sống đạo đức của giống nòi. Đó là chân lí, lẽ phải làm nên chiến thắng.

Lời kết thúc bài phú vừa bộc lộ lòng tự hào dân tộc vừa thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp. Giá trị nội dung: Qua việc tái hiện chiến thắng lịch sử hùng tráng trên sông Bạch Đằng và lời bình luận, bài phú đã ca ngợi sự tích anh hùng, niềm tự hào dân tộc và tư tưởng nhân văn cao đẹp. Đây là tác phẩm tiêu biểu của thơ văn yêu nước thời Lí – Trần. Giá trị nghệ thuật: Cấu tứ đơn giản mà hấp dẫn, kết cấu chặt chẽ, ngôn ngữ trang trọng giàu sức biểu hiện, hình tượng nghệ thuật sinh động (khách, bô lão, cảnh chiến trường…), giọng điệu phong phú…

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
1
Đế Vương
10/03/2022 10:19:28
+4đ tặng

Văn học dân tộc đã từng ghi lại biết bao nhiêu những hình tượng đẹp. Là Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn với bao nỗi trăn trở sục sôi về tinh thần tướng sĩ trong bài hịch bất hủ. Là vua Lí Công Uẩn đầy khảng khái, hi vọng về tương lai đất nước trong Chiếu dời đô. Là bậc khai quốc công thần Nguyễn Trãi hào sảng, khí thế trong Đại cáo bình Ngô. Và khoảng sau 50 năm sau chiến thắng trên sông Bạch Đằng, có một Trương Hán Siêu đầy hoài niệm về những chiến công trong lịch sử dân tộc trong Phú sông Bạch Đằng. Nhưng để bộc lộ, giãi bày xúc cảm ấy, bậc nho sĩ thời Trần đã gửi gắm qua hình tượng nhân vật khách, một sáng tạo thành công về mặt nghệ thuật đưa Phú sông Bạch Đằng trở thành một trong số những tác phẩm xuất sắc của thơ văn trung đại.

Theo đặc trưng của loại phú cổ thể, khách là một nhân vật được tác giả hư cấu, tưởng tượng, xây dựng theo hình thức đối đáp với một nhân vật nào đó (trong bài này là với các vị bô lão). Ở Phú sông Bạch Đằng, khách trở thành hình tượng trung tâm. Tác phẩm xét về mặt cấu trúc văn bản vẫn đáp ứng đầy đủ bốn đoạn thông thường (mở, giải thích, bình luận và kết), tuy nhiên cũng hoàn toàn thể cảm nhận bài phú dựa trên mạch cảm xúc của nhân vật khách. Đó là sự bộc bạch cái tráng trí bốn phương tha thiết và là nỗi niềm về cả một thời dĩ vãng oanh liệt của dân tộc năm xưa trên sông Bạch Đằng. Có lẽ bởi vậy nhiều người hiểu rằng khách chính là cái tôi của tác giả, là sự hóa thân tài tình của một bậc thi sĩ, một du sĩ và một đấng anh hùng chất chứa nhiều tâm sự về đất nước.

Và mở đầu bài phú, khách đã xuất hiện trong tâm thế của một đấng mặc khách, tao nhân, một nghệ sĩ lãng mạn, phóng khoáng, mang theo cái tráng trí bốn phương.
Khách có kẻ:

Giương buồm giong gió chơi vơi

Học Tử Trường chừ thú tiêu dao

Qua những hình ảnh có tính ước lệ, cường điệu giương buồm giong gió, lướt bể chơi trăng, sớm gõ thuyền, chiều lần thăm khách hiện lên trong dáng vẻ của một con người có tâm hồn khoáng đạt, thích ngao du. Vị mặc khách ấy như thể đang vi vu với gió trăng, trời bể suốt tháng ngày. Hai từ láy chơi vơi, mải miết càng tô đậm thêm sự say mê, đắm chìm trong giấc mộng hải hồ. Phép liệt kê đã đưa khách viễn du đến những cảnh đẹp của Trung Quốc, rồi lại trở về lướt thuyền tới sông Bạch Đằng. Những vùng đất bắc phương kia, dẫu khách chưa từng đặt chân đến, có khi chỉ biết qua sách vở nhưng đã thể hiện sự hiểu biết rộng của một bậc nho sĩ và cái tráng trí bốn phương của kẻ lãng du. Đi để khám phá thiên nhiên, để mở mang tri thức. Vì thế cứ nơi có người đi, đâu mà chẳng biết, dù vài trăm trong dạ cũng nhiều nhưng tráng trí bốn phương vẫn còn tha thiết. Khát vọng, hoài bão được thưởng ngoạn, ngao du cứ thế mà bay bổng. Nên điển tích Tử Trường không phải để học cách ghi chép sử kí, mà là học cái thú tiêu dao. Sự học ấy là để hòa mình vào thắng cảnh, nghiên cứu lịch sử, trau dồi học thức và cũng để giãi bày tâm sự.

Thế rồi cảnh ấy cũng hiện ra:

Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều

Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu

Theo cánh buồm lướt nhẹ, khách từ từ qua từng điểm rồi đến với sông Bạch Đằng. Và một cảnh tượng ngỡ ngàng hiện ra trước mắt: một khung cảnh tuyệt đẹp của mùa thu. Bút pháp miêu tả đầy lãng mạn, một bức tranh thủy mặc trên dòng sông đẹp ở từng đường nét. Có cái bát ngát sóng kình muôn dặm của một Bạch Đằng không bao giờ ngơi nghỉ, có cái thướt tha của những con thuyền như đuôi trĩ một màu và cảnh trời, sắc nước mênh mông như hòa lẫn vào nhau của một Bạch Đằng thơ mộng, hiền hòa. Phải là một tâm hồn yêu thiên nhiên, bằng con mắt của người nghệ sĩ và cả cái cảm quan đầy chất họa, Trương Hán Siêu mới vẽ được một bức tranh mùa thu đẹp như vậy. Cho nên cảm xúc cứ tự nó reo vui, thích thú trong tâm hồn của khách hải hồ. Có thể thấy, ngay ở những dòng đầu tiên của bài phú, khách đã tạo nên một tâm thế với tráng trí bốn phương rộng lớn của một nghệ sĩ lãng mạn, phóng khoáng và một bậc nho sĩ uyên bác.

Niềm xúc cảm trước thiên nhiên đẹp của bậc tao nhân, thi nhân có tráng trí hùng tâm ở trên khiến ta liên tưởng thấy bóng dáng của Nguyễn Bỉnh Khiêm “Thu ăn măng trúc đông ăn giá/ Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” (Nhàn) nhưng họ Trương không bày tỏ đạo lý thanh cao như Trạng Trình; thấy cả bóng dáng Cao Bá Quát “Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng/ Phía nam núi Nam, sóng muôn đợt” (Bài ca ngắn đi trên bãi cát) nhưng môn khách Trần Quốc Tuấn không bộc lộ sự chua xót, bất đắc chí như Cao Tử. Trương Hán Siêu đến với thiên nhiên vừa để thỏa chí lãng du vừa để đáp ứng lòng mong mỏi hiểu biết nhiều hơn về phong cảnh nước mình và giãi bày niềm tự hào về những công hiển hách của cha ông ta trước đây. Bởi vậy, khách mới hiện lên chân dung của một trí thức yêu nước, nặng lòng với non sông.

Nhưng ngay trong khoảnh khắc hiện tại, đối diện với Bạch Đằng, cảm xúc vui tươi trước vẻ đẹp của nó chẳng còn, bởi khung cảnh của chiến tích năm xưa giờ chỉ là:

Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu!

Bút pháp tả thực dường như đã vẽ nên một khung cảnh hoàn toàn đối lập. Khách nhìn về trận địa năm xưa sao ảm đạm, thê lương! Những bờ lau, bến lách qua hai từ láy san sát, đìu hiu mà đượm buồn. Dòng sông cuồn cuộn sóng khí thế năm xưa giờ chỉ còn giáo gãy, xương khô mà bi thảm. Trong khung cảnh ấy, tâm hồn của mặc khách kia bỗng trùng xuống, có ánh mắt u buồn, có cái nín lặng, cúi đầu mà thương tiếc, xót xa, ngậm ngùi. Cảm xúc thay đổi một cách nhanh chóng đầy thương cảm, bởi sức mạnh ăn mòn vạn vật của thời gian đã làm phai mờ dấu tích oai hùng một thời. Mà sau này nhà thơ Nguyễn Trãi cũng không tránh khỏi được điều đó khi tới đây:

Việc trước quay đầu ôi đã vắng

Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng

(Cửa biển Bạch Đằng)

Thế là bao nhiêu thương cảm dồn nén ấy hóa ra lại đẩy lên trong lòng thi nhân một ước vọng được một lần nữa sống lại những khoảnh khắc oai hùng như thuở xưa. Bởi vậy mới có nhân vật các vị bô lão – những người trong cuộc, đã chứng kiến, đã tham gia, giờ đây tái hiện, phục chế lại quá khứ ấy để gieo vào lòng mặc khách niềm tự hào, kiêu hãnh của những chiến thắng lẫy lừng trên dòng sông lịch sử năm xưa. Ca ngợi sông Bạch Đằng là con sông huyền thoại, nổi tiếng nhất quả không sai. Vì hai trận đánh của Trùng Hưng nhị thánh và Ngô chúa năm xưa đã không cho kẻ thù một chút hiển vinh, làm lay động cả trời đất, vũ trụ là ở con sông ấy. Biết bao nhiêu cảm hứng lịch sử ùa về trong lời kể. Tuy nhân vật khách không hề tham gia vào câu chuyện của các vị bô lão, nhưng chúng ta vẫn nhận ra khách tuy ẩn đi mà vẫn hiện ra bằng cảm xúc. Lối kể mang đậm chất ước lệ, cường điệu pha lẫn cảm hứng vũ trụ đã tái hiện sống động, hoành tráng, hào hùng những trận đánh năm xưa. Từ lúc được thua chửa phân, ánh nhật nguyệt phải mờ, trời đất sắp đổi đến khi kẻ thù tan tác tro bay, hoàn toàn chết trụi, nỗi nhục nhã muôn đời không rửa nổi. Đằng sau tất cả là niềm tự hào, hứng khởi của khách. Bao cảm xúc buồn thương trước đó tan biến, nhường chỗ cho sự kiêu hãnh, mãn nguyện, thán phục về một thuở quá đỗi hào hùng, về một truyền thống yêu nước bất diệt không bao giờ mất. Khách cứ thế mà đồng tình với cách cắt nghĩa nguyên nhân những thắng lợi ấy của các vị bô lão. Cũng là một người am hiểu, thấu trọn lẽ đời và cốt lõi lịch sử, khách nhận ra thiên có thời, địa có lợi nhưng nhân phải có hòa mới làm nên được thành công. Và khách dành trọn sự ngợi ca của mình đến những con người anh hùng ấy, đặc biệt là những bậc thánh đế minh vương biết thu phục lòng dân, giữ cuộc điện bằng đức cao sáng chói mới thấm nhuần được non sông, mới ghi tạc vào lịch sử những chiến công hiển hách đến vậy. Lời ca cuối cùng của khách như âm vang theo nhịp sóng Bạch Đằng:

Anh minh hai vị thánh quân

Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh

Giặc tan muôn thuở thăng bình

Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao

Phải chăng Bạch Đằng giang cuồn cuộn sóng chảy ra biển Đông cũng là lòng người thi nhân cuồn cuộn sóng? Có cái cuồn cuộn mạnh mẽ về một quá khứ xa xưa, nhưng cũng có cái cuồn cuộn cảm khái, ưu tư về thế thời, xã tắc lúc bấy giờ. Khách bởi vậy mà đã khơi dậy những giá trị lịch sử rất đỗi thiêng liêng của dân tộc, đề cao vị trí, vai trò của con người trong lịch sử nhưng cũng ngầm chuyển tải tâm sự thời thế mà ông chẳng thể nói ra.

Qua bút pháp rất đặc trưng của thơ văn trung đại, nhân vật khách đã được khắc họa thành công trong bài phú, trở thành một hình thượng nghệ thuật đặc sắc của văn học thời kỳ này. Có thể nói, khách đã hội tụ, kết tinh hết thảy những phẩm chất con người của chính tác giả. Khách đã khẳng định cái tôi đậm chất nghệ sĩ hoài cổ mà từ đó giúp Trương Hán Siêu chuyển tải những giá trị tư tưởng có tính lịch sử thiêng liêng và truyền thống vẻ vang của dân tộc trong bài phú.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k
Gửi câu hỏi
×