Ông lão đánh cá và con cá vàng là một truyện cổ dân gian Nga được A. Pushkin kể lại bằng 205 câu thơ (tiếng Nga) và Vũ Đình Liên, Lê Trí Viễn dịch sang tiếng Việt qua văn bản tiếng Pháp. Người dịch vừa giữ được nét chất phác, dung dị của nghệ thuật truyện cổ dân gian, vừa rất điêu luyện, tinh tế trong sự miêu tả và sắp xếp tình tiết của truyện. Truyện không chỉ hấp dẫn với người Nga mà còn với nhiều dân tộc khác trên thế giới.
Truyện sử dụng những biện pháp nghệ thuật rất tiêu biểu của cổ tích như: sự lặp lại và tăng tiến của những tình huống, sự đối lập giữa các nhân vật, sự xuất hiện của các yếu tố tưởng tượng, hoang đường. Truyện Ông lão đánh cá và con cá vàng ca ngợi lòng biết ơn đối với những người nhân hậu và nêu ra bài học đích đáng cho những kẻ tham lam, bội bạc.
Cốt truyện đơn giản: Ngày xưa, có hai vợ chồng người đánh cá già sống rất nghèo khổ. Một hôm, ông lão kéo lưới bắt được một con cá vàng. Cá vàng van xin ông lão thả ra, ông lão muốn gì sẽ được nấy. Mụ vợ tham lam bắt ông lão phải thực hiện những điều mụ yêu cầu. Lòng tham vô tận, mụ muốn làm Long Vương để bắt cá vàng hầu hạ. Cá vàng tức giận, bắt mụ trở về cuộc sống nghèo khổ như xưa.
Truyện có ba nhân vật: ông lão đánh cá, mụ vợ và con cá vàng. Biển cả mênh mông là khung cảnh làm nền cho ba nhân vật hoạt động.
Trong truyện, ông lão năm lần ra biển gọi cá vàng để nhờ cậy. Lần thứ nhất: biển gợn sóng êm ả. Lần thứ hai: biển xanh nổi sóng. Lần thứ ba: biển xanh nổi sóng dữ dội. Lần thứ tư: biển nổi sóng mù mịt. Lần thứ năm: một cơn dông kinh khủng kéo đến, mặt biển nổi sóng ầm ầm.
Năm lần gọi cá vàng là năm lần cảnh biển thay đổi. Một bên là những yêu cầu ngày càng quá quắt của mụ vợ ông lão, một bên là phản ứng của biển mỗi lúc một tăng, tương ứng với sự vô lí của những yếu cầu đó. Qua những lần lặp lại như thế, tính cách nhân vật (ông lão, mụ vợ, cá vàng) và chủ đề của truyện càng được tô đậm.
Ở đây, biển không chỉ đơn thuần làm nền cho các nhân vật hoạt động mà còn tham gia tích cực vào diễn biến của truyện, tượng trưng cho phản ứng của nhân dân, của trời đất trước thói tham lam và bội bạc.
Đọc truyện này, ai cũng thương ông lão bởi vì ông là người tốt bụng, hiền lành mà không may gặp phải mụ vợ tai quái, độc ác. Ông lão luôn luôn bị vợ mắng chửi tàn tệ. Lần thứ nhất, khi ông lão thật thà kể chuyện về cá vàng, ông đã bị mụ mắng như mắng trẻ con: "Đồ ngốc!...". Lần thứ hai, dù ông lão đã làm theo ý mụ, mụ vẫn quát to: "Đồ ngu!...". Lần thứ ba, thấy ông lão từ biển về, mụ mắng như tát nước vào mặt ...
Không chỉ bị vợ sỉ nhục, mắng mỏ, ông lão còn bị mụ khinh rẻ, ngược đãi. Lần thứ ba, tuy ông lão đã ra biển xin cá vàng cho mụ trở thành nhất phẩm phu nhân nhưng ông vẫn bị mụ quát tháo và bắt quét dọn chuồng ngựa. Lần thứ tư, ông lão lại năn nỉ xin cá vàng cho mụ được làm nữ hoàng, để rồi bị mụ tàn nhẫn ra lệnh đuổi đi ...
Từ địa vị của một ông chồng, ông lão đã bị biến thành đầy tớ, bị vợ hắt hủi, xua đuổi không chút xót thương. Nguyên nhân chỉ vì ông sợ vợ một cách mù quáng. Người đọc thương ông lão hiền lành nhưng cũng giận ông lão quá nhu nhược, nhất nhất nghe theo lời vợ. Biết mụ được voi đòi tiên nhưng ông vẫn nhắm mắt làm theo lời mụ. Cảm thấy những đòi hỏi của mụ vợ là vô lí, nhận ra lòng tham đến mức quái gở của mụ, vậy mà ông lão không dám phản đối thì thật là đáng trách.
Chính vì nhu nhược mà ông lão bị mụ vợ đối xử thậm tệ. Lần thứ tư, rồi lần thứ năm, ông lão vẫn mù quáng làm theo lời mụ vợ, chỉ biết van xin cá vàng: - Giúp tôi với! Thương tôi với! Tôi sống làm sao được?!Ông lão không biết bảo vệ mình. Dân gian có câu: Một sự nhịn là chính sự lành nhưng nhịn nhục như ông lão là điều không nên.