Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Văn bản “Hịch tướng sĩ” đã thể hiện sâu sắc nỗi lòng của vị chủ tướng Trần Quốc Tuấn trong hoàn cảnh đất nước có giặc ngoại xâm. Em hãy chứng minh làm rõ ý kiến

Văn bản “Hịch tướng sĩ” đã thể hiện sâu sắc nỗi lòng của vị chủ tướng Trần Quốc Tuấn trong hoàn cảnh đất nước có giặc ngoại xâm. Em hãy chứng minh làm rõ ý kiến.
2 trả lời
Hỏi chi tiết
305
2
0
Tr Hải
02/05/2022 09:21:51
+5đ tặng

Từ xưa tới nay, trong suốt 4000 năm văn hiến, nhân dân ta luôn có một tấm lòng yêu nước nồng nàn, thủy chung son sắt, từ thời bình đến thời chiến, ta chưa một ngày đánh mất hay làm phai mờ tấm lòng ấy. Đó là một truyền thống quý báu của dân tộc ta. Tình yêu nước được thể hiện trong nhiều khía cạnh, từ những người anh hùng đứng lên cầm súng, cầm gươm giết giặc, đến những nghệ sĩ với ngòi bút tinh tế điêu luyện, viết ra những tác phẩm thật sâu sắc, ẩn chứa lòng yêu nước thiết tha. Trần Quốc Tuấn là tổng hòa của cả hai yếu tố ấy, điều đó thể hiện trong lịch sử và bài Hịch tướng sĩ.

Trần Quốc Tuấn (1231-1300), tước là Hưng Đạo đại vương, ông có công lớn trong cuộc chiến chống quân Mông – Nguyên, là một vị tướng tài ba của nhà Trần trong những năm triều đình hưng thịnh. Hịch tướng sĩ thuộc thể loại hịch. Hịch thường do vua chúa, tướng lĩnh thủ lĩnh viết để cổ vũ, khích lệ tinh thần của quân sĩ tham gia chống giặc, giọng văn tình cảm, hùng hồn, mạnh mẽ thể hiện được tinh thần của người viết, có sức lan tỏa. Thường sử dụng các câu văn biền ngẫu, hoa mĩ, trang trọng.

Văn bản thể hiện tấm lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn rất sâu sắc, có phong thái của một vị chủ tướng thống lĩnh ba quân, có trách nhiệm. Vì yêu nước, vì muốn chiến thắng quân Mông-Nguyên nên ngài viết bài Hịch để kêu gọi, ủng hộ, củng cố tinh thần tướng sĩ. Sau khi nói về những tấm gương sáng về lòng yêu nước chiến đấu hết mình Tổ quốc trong lịch sử thời Xuân Thu chiến quốc, nói về tình hình địch ta. Trần Quốc Tuấn bắt đầu bày tỏ nỗi lòng của mình, từng câu từng chữ nghe thật thấm thía, ngậm ngùi. Trước hết là ở thái độ căm tức khi chứng kiến cảnh “Ngó thấy sự giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thoả lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, vét của kho có hạn, thật khác nào đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai hoạ về sau!”. Sự so sánh thật gay gắt, ví quân giặc như lũ thú vật ác ôn là diều hâu, cú mèo, vốn là những thứ xui xẻo, bị người đời khinh ghét. Rồi lại coi chúng chẳng khác nào loài gia súc như dê chó, tất cả những điều đó đều nhằm thể hiện thái độ khinh ghét, lòng căm phẫn sự nghênh ngang, vô sỉ của quân cướp nước. Ông yêu nước lại thương dân nên khi gặp cảnh giặc thù giày xéo quê hương, thì thân là chủ tướng mà trước hết là con dân Đại Việt ông luôn có một mối trăn trở, day dứt đến nỗi “tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, nước mắt đầm đìa”. Đó là nỗi lo lắng đến mất ăn mất ngủ, nỗi đau xót khôn cùng khiến bậc đại trượng phu cũng phải khóc than. Là lòng căm thù quân giặc cùng cực “chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù”. Đó là tấm lòng nguyện hy sinh máu xương cho Tổ quốc “dẫu trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa cũng cam lòng”, đó là tấm lòng thật đáng quý trân trọng biết bao. Và hơn thế Trần Quốc Tuấn muốn lan tỏa tấm lòng ấy tình cảm ấy đến toàn thể các binh sĩ, khơi dậy trong họ lòng yêu nước, tinh thần hy sinh, lòng căm thù quân giặc. Ông dùng những lời lẽ động viên hết sức chân thành và thuyết phục “Giặc với ta là kẻ thù không đội trời chung, các ngươi cứ điềm nhiên không biết rửa nhục, không lo trừ hung, không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy rồi đây sau khi giặc đã dẹp yên, muôn đời để thẹn, há còn mặt mũi nào đứng trong trời đất nữa?”. Đánh đòn tâm lý, vào cái tinh thần yêu nước tiềm tàng của quân sĩ, vào cái lòng tự tôn dân tộc vốn đã tồn tại từ rất lâu chỉ đợi có người khơi gợi.

Hơn thế nữa, ông còn có một tấm lòng nhân hậu, yêu thương và quan tâm đến binh sĩ của mình mà nền tảng là tấm lòng yêu nước thương dân sâu sắc. Ông hết mực lưu tâm đến cuộc sống của họ, đối đãi công bằng, người có công thì được thưởng, cơm ăn áo mặc, thăng quan tiến chức đều đủ cả. Chủ tướng sát cánh cùng binh sĩ, sống chết có nhau, lúc thanh bình lại tán gẫu đàm đạo vui cười, quả thực là gần gũi thân thiết vô cùng. Rồi ông phê phán những kẻ bàng quan trước thế sự, không biết lo nghĩ, quên hết ân tình của chủ của đất nước, chỉ ham những thú vui chọi gà, đánh bạc tầm thường, ham vui thú đồng ruộng, vợ con, hay nghe hát kịch mà chẳng biết quân giặc đã mò đến tận cổng. Đó là không biết lo, không biết nhục. Ông vẽ ra viễn cảnh đất nước bị giặc thôn tính, nhân dân lầm than, mà trước hết là các binh lính sẽ chết trong nỗi nhục ê chề trăm năm, ngàn năm vì không bảo vệ được đất nước, được gia đình, “đau xót biết chừng nào!”. Sau đó ông vẽ ra viễn cảnh thái bình thịnh trị, vui vẻ nếu đánh bay quân giặc, câu nào cũng thật chí lý, thật hay, khiến người ta nghe mà hưng phấn và vui mừng, tinh thần binh lính lập tức được dâng cao hẳn, người người nhà nhà muốn ra sa trường bêu đầu giặc cho thỏa chí nam nhi.

Lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn còn thể hiện qua việc ông dồn hết tâm sức viết cuốn Binh thư yếu lược để cho binh sĩ đọc và học tập, để nâng cao binh pháp, tinh thần chiến đấu. Đó là tấm lòng chân thành tha thiết của người chủ tướng gửi gắm đến binh sĩ của mình. Ông chỉ có một mơ ước sao cho nước nhà sạch bóng quân thù, để muôn dân được ấm no, không phải chịu nỗi nhục mất nước, nỗi đau ly tán. Chỉ cần thế thì người chủ tướng như ông đã chẳng còn gì phải hối tiếc. Ôi một tấm lòng thật đẹp!

Qua tác phẩm Hịch tướng sĩ, với giọng văn vừa hùng hồn mạnh mẽ lại tràn đầy tình cảm có sức lay động tâm hồn của Trần Quốc Tuấn. Ta có thể thấy được tấm lòng yêu nước yêu dân của vị anh hùng đáng kính, ông tựa như một người cha, với những lời lẽ thật tâm huyết cho những đứa con còn nhỏ dại, còn mơ hồ về tình trạng đất nước. Qua 

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
2
0
Phùng Minh Phương
02/05/2022 09:27:24
+4đ tặng

Trần Quốc Tuấn tức hiệu là Hưng Đạo Vương là một danh tướng kiệt xuất, văn võ song toàn, có công lớn với dân tộc ta. Vào năm 1285, trước cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần thứ hai, ông đã viết “Hịch tướng sĩ” nhằm khích lệ, kêu gọi các tướng sĩ đứng lên đấu tranh bảo vệ tổ quốc. Qua bài hịch, ta thấy rõ lòng yêu nước nồng nàn, tha thiết của vị chủ tướng tài ba.

Lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn qua bài hịch được thể hiện qua những cung bậc tình cảm, cảm xúc khác nhau.

Ngay từ câu văn đầu tiên, Trần Quốc Tuấn đã đưa ra các tấm gương trung thần nghĩa sĩ trong sử sách Trung Quốc để khơi gợi lòng trung quân ái quốc của các tướng sĩ. Trong đó có những người là tướng lĩnh, là bề tôi gần như Kỉ Tín, Do Vu, Dự Nhượng; lại có cả những người bình thường, những kẻ bề tôi xa như Thần Khoái, Kính Đức, Cảo Khanh. Cách nêu gương như vậy thật toàn diện! Nó có tác dụng khích lệ được nhiều đối tượng, ai cũng có thể làm người trung nghĩa “lưu danh sử sách, cùng trời đất, muôn đời bất hủ”. Lịch sử nước Nam không thiếu anh hùng nhưng trong bài hịch, Trần Quốc Tuấn chỉ nêu những tấm gương trong Bắc sử. Điều đó thể hiện một cái nhìn rất phóng khoáng của ông: không cần phân biệt dân tộc, tất cả những người trung nghĩa dám xả thân vì chủ, vì vua, vì nước đều đáng được ca ngợi.

Sau khi nêu những tấm gương sử sách, Trần Quốc Tuấn quay lại với thực tế “thời loạn lạc”, buổi “gian nan của đất nước” cũng là lúc lòng yêu nước của ông thể hiện cao độ. Đọc tác phẩm, ta cảm nhận được những lời lẽ đanh thép, vạch trần tố cáo bộ mặt của kẻ thù. Với bản chất ngang tàn, hống hách chúng không chỉ coi thường dân ta mà còn xỉ nhục, lăng mạ triều điều từ vua đến quan: “đi lại nghênh ngang ngoài đường”, “sỉ mắng triều đình”, “bắt nạt tề phụ”, “đòi ngọc lụa”, “thu ngọc vàng”, “vét của kho có hạn”. Nỗi căm giận và lòng khinh bỉ của Hưng Đạo Vương thể hiện rõ trong những ẩn dụ chỉ “sứ giặc” như “lưỡi cú diều”,”thân dê chó”, “hổ đói”; ông đặt chúng ngang với lũ súc sinh, không còn liêm sỉ. Từ đó Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra nỗi nhục quốc thể bị chà đạp cũng như đánh vào lòng tự ái dân tộc và khơi sâu nỗi căm thù giặc ở các tướng sĩ.

Trước tội ác của kẻ thù và nỗi nhục của đất nước, Trần Quốc Tuấn đã bày tỏ nỗi lòng của mình “Ta thường tới bữa quên ăn; nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa” và tột cùng là “chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù”. Những hành động mạnh mẽ ấy không chỉ thể hiện sự căm thù giặc mà còn là ý chí quyết chiến quyết thắng, một phen sống chết với quân thù. Cao hơn nữa, ông còn nguyện hy sinh thân mình cho sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, giành lại độc lập cho Tổ quốc: “Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này có gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”. Tất cả các trạng thái tâm lí, các khía cạnh tình cảm trong ông đều được đẩy tới cực điểm! Đoạn văn như trào ra từ trái tim thiết tha yêu nước và sôi sục căm thù như được viết nên từ máu và nước mắt. Để rồi nó trở thành nỗi ám ảnh thường trực ngày cũng như đêm; dồn nén thì khát khao hành động giết giặc, tình yêu nước đốt cháy lên lòng quyết tâm hi sinh để rửa mối nhục cho đất nước. Câu văn chính luận mà giàu cảm xúc và hình ảnh đã khắc họa được hình ảnh người anh hùng yêu nước, tác động sâu sắc vào tình cảm người tướng sĩ.

Chưa dừng lại ở đó, Trần Quốc Tuấn còn luôn quan tâm, sẻ chia, theo dõi những tướng sĩ dưới quyền khi xông pha trận bão cũng như khi thái bình: “không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng,…”. Từng đây thôi cũng đủ hiểu ông là một vị tướng như thế nào! Trên cơ sở, mối quan hệ đầy ân tình ấy, Trần Quốc Tuấn vừa chân tình chỉ bảo vừa phê phán nghiêm khắc thái độ, hành động sai trái của các tướng sĩ vô trách nhiệm trước vận mệnh nước, lơ là cảnh giác trước kẻ thù “nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức; nghe nhạc thái dương để đãi yến ngụy sự mà không biết căm”. Cái sai tiếp theo là hành động hưởng lạc: ham mê chọi gà, đánh bạc, vui thú vườn ruộng, lo làm giàu, quyết luyến vợ con,… Đồng thời ông cũng chỉ rõ hậu quả của tất cả những việc đó: tất cả sẽ mất hết, từ cái chung đến cái riêng, từ chủ soái đến tướng sĩ hay thiêng liêng hơn là danh tiếng, xã tắc tổ tông, mộ phần cha mẹ… Sự phê phán nghiêm khắc của Trần Quốc Tuấn bắt nguồn sâu xa từ lòng yêu thương chân thành với tướng sĩ và từ tình yêu Tổ quốc thiết tha cháy bỏng của ông. Tất cả là nhằm để đánh bại những tư tưởng dao động, bàng quan giành thế áp đảo cho tinh thần quyết chiến quyết thắng và đó cũng chính là tư tưởng chủ đạo của bài Hịch, là thước đo cao nhất, tập trung nhất tư tưởng yêu nước trong hoàn cảnh lúc bấy giờ.

Cuối cùng ông nêu ra hai viễn cảnh: nước còn và nước mất, họa và phúc. Họa có thể đến nơi mà phúc như một thứ nhỡn tiền, nhìn thấy, chỉ có điều chúng khác nhau một trời một vực. Điều quyết định nằm ở thái độ, trong sự dứt khoát chọn con đường: ăn chơi hay gác lại thú ăn chơi? Nhận thức được phải trái, đúng sai nhưng thước đo cuối cùng phải là hành động. Hành động ấy rốt cuộc là “chuyên tập sách này” – cuốn Binh thư yếu lược hay là khinh bỉ nó. Chăm chỉ học hành, tập luyện “mới chỉ là đạo thần chủ” còn nếu không, nếu trái lời dạy bảo của người uy quyền thống lĩnh toàn quân “tức là kẻ nghịch thù”. Một cách lập luận tuyệt vời của Trần Quốc Tuấn! Những lời văn đó đã tác động vào tình cảm ân nghĩa thủy chung của các tướng sĩ, động viên những người còn do dự hãy chỉnh tề đứng vào hàng ngũ của những người quyết chiến quyết thắng.

Lịch sử đã chứng minh, ngay sau khi bài Hịch được công bố, cả đêm hôm đó ba quân tướng sĩ không ngủ, họ mài gươm cho thật sắc, họ thích vào cánh tay hai chữ “Sát Thát”, họ hoa chân múa tay đòi gấp gấp lên đường đánh giặc, trong tim họ như có một ngọn lửa đang rừng rực cháy.

“Hịch tướng sĩ ” của Trần Quốc Tuấn là một áng văn bất hủ. Nó không chỉ là tác phẩm kết tinh lòng yêu nước của dân tộc Đại Việt thời Trần mà còn là một mẫu mực về văn nghị luận trung đại: sự kết hợp giữa lập luận chặt chẽ, sắc bén với lời văn giàu hình tượng và cảm xúc, có sức lôi cuốn mạnh mẽ. Trần Quốc Tuấn cùng với áng văn Thiên Cổ Hùng Văn sẽ mãi mãi trường tồn với thời gian.

 

 

Lương Lạc Lối
bài này hay quá

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Trắc nghiệm Ngữ văn Lớp 8 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư