Có thể nói rằng văn chương chỉ có sức lay động lòng người và có sức sống bất diệt khi tác phẩm văn chương đó có được tính nhân đạo sâu sắc. Và được biết đến là một kiệt tác của văn học không chỉ nói về nghệ thuật ngôn từ mà tác phẩm đó còn phải mang một cảm hứng nhân đạo thật sâu sắc thì mới có thể có sức sống lâu bền được. Và kiệt tác “Truyện Kiều” được đánh giá là một tác phẩm văn học có sức sống lâu bền cho nên nó phải mang được cảm hứng nhân đạo sâu sắc.
Từ xưa cho đến nay thì chính cảm hứng nhân đạo xuất phát từ tình yêu thương con người với con người.
Ta như có thể thấy được rằng một tác phẩm mang cảm hứng nhân đạo khi nó ca ngợi những phẩm chất cao đẹp của con người. Hơn nữa đó là sự đồng tình với khát vọng chính đáng của họ đồng thời là sự đồng cảm xót thương cho biết bao nhiêu số phận kém may mắn mà họ cũng đã bị chà đạp, cưỡng bức.
Tác phẩm dường như cũng đã mang cảm hứng hứng nhân đạo còn phải là một bản án tố cáo những thế lực thù địch, xã hội bất công giày xéo nhân phẩm con người. Quả thật nhà văn Nguyễn Du coi trọng tài sắc của Thúy Kiều hơn hết đó chính là những câu đó chính là:
“Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”
Cũng chính vì thế nên khi Kiều bán mình chuộc cha, phải trao duyên cho em, nhờ em thay mình trả nghĩa chàng Kim. Lúc này nhà thơ Nguyễn Du càng thấu tỏ bi kịch cuộc đời nàng. Có thể thấy được trong mười lăm năm tha hương là mười lăm năm đoạn trường đầy gian truân của Thúy Kiều. Nếu như ông càng thương Kiều, Nguyễn Du dường như cũng lại càng cảm thấy như yêu quý phẩm chất thanh cao, trong sạch của nàng. Ông cũng đã đau xót đến tận cùng cho một con người hồng nhan bạc mệnh:
“Đã cho lấy chữ hồng nhan
Làm cho cho hại cho tàn cho cân
Đã đày vào kiếp phong trần
Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi”
Dường như ta cũng đã thấy được cũng chính Nguyễn Du đã nhập thân để hiểu tận cùng nỗi đau của Thúy Kiều và đại thi hào Nguyễn Du cũng đã thật bất bình thay cho nàng. Nguyễn Du quả thực cũng đã coi mình như nàng Thúy Kiều, đó chính là việc như đã cùng mang những nỗi oan sai nghiệt ngã do xã hội đọa đày, cùng khao khát có thể có được một người tri âm tri kỉ để dốc bầu tâm sự:
“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng)
(Độc Tiểu Thanh ký)
Người đọc cũng có thể thấy được trong suốt thiên “Truyện Kiều”, Nguyễn Du dường như luôn luôn đặt câu hỏi tìm đâu là nguyên nhân của những đau khổ tột cùng của con người. Nhưng thực tế đã cho thấy được bản thân ông biết, xã hội bất công và xã hội đó có cả những sự ma lực đồng tiền đã đẩy những con người tài sắc như nàng Kiều đã phải vào chốn bùn nhơ, cuộc sống bi kịch.
Ông cũng như đã hiểu thấu được nguyên nhân, nhưng chính ông dường như cũng đã không thể xoay chuyển thế sự. Bởi chính ông, chính Nguyễn Du- người có tấm lòng nhân đạo cũng đang bị thời thế rối ren, lũng đoạn đày ải.
Nguyễn Du được xem chính là một đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Tấm lòng nhân đạo của ông dường như cũng đã xuất phát từ chính trái tim của người nghệ sĩ. Hơn nữa người đọc còn cảm thấy được đó chính là tiếng lòng của ông là nỗi lòng chung của nhiều số phận đang bị áp bức trong xã hội đương thời lúc bấy giờ.