Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Cảm nhận của em về bài thơ "Bài thơ về tiểu đội xe không kính"

4 trả lời
Hỏi chi tiết
398
1
0
Tiểu Khả Ái
24/05/2018 18:35:31

Viết về những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ của dân tộc, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã đưa vào bài thơ của mình một hình ảnh vô cùng độc đáo mà không kém phần mới lạ, đó chính là những chiếc xe không kính. Bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính đã dựng lên được hình ảnh cao đẹp của những người lính lái xe thông qua hình ảnh của những chiếc xe không kính.

Mở đầu bài thơ, tác giả đã nói một cách đầy hài hước về những chiếc xe không kính và nguyên nhân dẫn đến tình trạng không kính ấy:

“Không có không phải xe không có kính

Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi

Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”

Những chiếc xe tải chuyên dùng để vận chuyển quân lương, thuốc thang, hàng tiếp viện cho miền Nam đã từng là những chiếc xe lành lặn và đầy đủ những phụ kiện tối thiểu. Nhưng do bom đạn mà quân giặc thả xuống nhằm chặn đứt con đường chi viện mà chiếc xe bị tàn phá nặng nề. Không chỉ méo mó về hình dạng mà những chiếc kính xe cũng bị vỡ. Đối lập với tình trạng của chiếc xe, những người lính lái xe vẫn hiên ngang làm nhiệm vụ với tinh thần ung dung, tự tại cùng đôi mắt vô cùng kiên định “Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”.

“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

Thấy con đường chạy thẳng vào tim

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

Như sa như ùa vào buồng lái”

Kính vỡ, những người lính lái xe phải làm việc trong điều kiện vô cùng khó khăn, khốc liệt. Xe chạy nhanh cho kịp hành trình mà những tấm kính bị vỡ đi rồi, vì vậy mà những người lính bị gió lùa vào khiến đôi mắt cay xẻ, gây cản trở tầm nhìn. Nhưng trong cái khó khăn thì tầm nhìn lí tưởng của những người lính dường như càng được mở rộng, càng sáng rõ “Thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Những hiện tượng, sự vật của tự nhiên như cánh chim, sao trời bỗng chốc trở thành những người bạn đồng hành với những người lính trong cuộc hành trình nhiều gian lao.

“Không có kính ừ thì có bụi

Bụi phun tóc trắng như người già

Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”

Không có kính nên bụi đất bên đường cũng nhuộm trắng xóa những mái đầu xanh của người lính lái xe. Trong cái nhìn đầy lạc quan, yêu đời,những người lính lại có cách nhìn đầy hài hước về những mái đầu đầy bụi đất ấy, nhìn nó trắng xóa như tóc người già.Trong cuộc hành trình dài, những người lính vẫn có những phút giây giải lao trong chớp nhoáng, họ đã cùng nhau hút thuốc phì phèo, cùng nhau cười đùa đầy vui vẻ về những mái đầu bạc.

“Không có kính rồi xe không có đèn

Không có mùi rồi thùng xe có xước

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim”

Những chiếc xe bị tàn phá nghiêm trọng, không có kính, thùng xe bị xước, không có đèn- nghĩa là thiếu đi rất nhiều những phụ kiện cơ bản đảm bảo cho cuộc hành trình.Nhưng không vì vậy mà cuộc hành trình này bị gián đoạn, những chiếc xe vẫn chạy theo hành trình định sẵn, đó chính là hướng về miền Nam ruột thịt “xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”. Bởi trong xe có một trái tim, đây là trái tim đầy nồng nhiệt của một người con yêu nước, của một người chiến sĩ đầy kiên cường và quả cảm.

Hình ảnh những người lính hiện lên mới thật sinh động, đáng quý làm sao. Thông qua hình ảnh đầy đặc sắc của những chiếc xe không kính, Phạm tiến Duật đã đi xây dựng thành công bức tượng đài về tinh thần dũng cảm cùng sự kiên cường của những người lính lái xe trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Ngọc Trâm
24/05/2018 21:25:39

Hình ảnh của người lính trong kháng chiến luôn là chủ đề của rất nhiều nhà văn, nhà thơ với những hình ảnh khác nhau về người lính. Và trong tác phẩm “Bài thơ về Tiểu đội xe không kính” ta thấy rõ về hình ảnh của những người lính lái xe ở Trường Sơn với tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu thông qua hình ảnh của những chiếc xe không kính.

Bài thơ ra đời trong thời kì kháng chiến chống Mĩ đã thể hiện rất thành công về hình ảnh người lính lái xe. Và vì tác giả là người am hiểu đời sống chiến tranh và có lối viết văn tả thực nên đã gây ấn tượng sâu sắc tới người đọc. Trong bài thơ tác giả đã tạo nên hình ảnh đặc biệt là những chiếc xe không kính, hình ảnh độc đáo đó đã để lại trong lòng người đọc ấn tượng sâu sắc.

Trong bài thơ, tác giả đã vẽ nên một hình ảnh rất gần gũi và gắn bó với người lính, đó chinh là những chiếc xe không kính. Những chiếc xe này không còn bình thường mà đặc biệt ở chỗ chúng là những chiếc xe không kính. Vì xe không có kính nên:

“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

Như sa, như ùa vào buồng lái...

... Không có kính, rồi xe không có đèn

Không có mui xe, thùng xe có xước”

Ởđây tác giả đã tả rất thực về những cái thiếu của chiếc xe nên đã tạo nên hình ảnh rất đặc biệt về chiếc xe không kính trần trụi, dị dạng và nó gây ấn tượng sâu sắc tới người đọc. Qua những sự thiếu thốn đó, tác giả còn muốn nói lên với chúng ta về sự ác liệt của chiến tranh.

“Không có kính không phải vì xe không có kính

Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”

Nhưng cuối cùng từ trong hình ảnh chiếc xe không kính ta thấy hiện lên hình ảnh người lính lái xe:

“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim”

Có thể nói đây là một khám phá rất thú vị về người lính Trường Sơn. Người lính lái xe được so sánh như trái tim, và trái tim này chứa đầy nhiệt huyết, chứa đầy tinh thần chiến đấu. Những người lính lái xe đã điều khiển những chiếc xe thiếu nhiều thứ, chứng tỏ họ là những con người rất dũng cảm, dám đón nhận những nguy hiểm từ chiếc xe đem lại và đặc biệt là của chiến tranh:

“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng...

... Bụi phun tóc trắng như người già...

...Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời”

Những khó khăn gian khổ đang thử thách người lính Trường Sơn nhưng họ đều vượt qua vì trong họ luôn có một tình yêu nước nồng nhiệt. Không chỉ thế, để vượt qua những khó khăn thì họ luôn lạc quan và rất tự tin:

“Ung dung buồng lái ta ngồi”

“Không có kính, ừ thì có bụi”

“Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”

“Không có kính, ừ thì ướt áo”

Những câu trả lời của họ trước sự thiếu thốn về vật chất xem ra rất bình thường. Họ luôn trả lời “ừ thì” thể hiện họ luôn lạc quan, luôn chấp nhận mọi khó khăn thử thách dù chúng rất nguy hiểm. Nhưng chêt chỉ lạc quan mà dù trong kháng chiến luôn phải đối mặt với cái chết nhưng họ vẫn là những người lính trẻ trung rất vui nhộn:

“Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha!

Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa

Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi!”

Nguy hiểm luôn sát bên họ nhưng họ vẫn châm điếu thuốc, cười ha ha. Qua đó ta thấy họ là những người hiên ngang, thấy được sự sôi nổi của người lính trẻ. Điều cuốicùng trong bài mà tác giả nói đến là tình đồng đội gắn bó, thân thiết của họ:

“Những chiếc xe từ trong bom rơi

Đã về đây họp thành tiểu đội

Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới

Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi, lại đi, trời xanh thèm”.

Không phải là những người thân nhưng họ lại là những người đồng đội cùng chiến đấu với nhau vì vậy họ cùng là một gia đình lớn. Và trong đại gia đình đó họ luôn gắn bó, thương yêu nhau.

Về nghệ thuật trong bài thơ, tác giả đã lấy chất liệu là hiện thực như xe không kính, không đèn... để thuyết phục người đọc. Ngoài ra tác giả còn chú trọng miêu tả hình ảnh đặc biệt của chiếc xe không kính, từ đó khắc hoạ hình ảnh người lính sôi nổi, trẻ trung, ngang tàng và dũng cảm. Ngôn ngữ bài thơ khoẻ khoắn, trẻ trung, ngang tàng, rắn rỏi, nhưng vẫn lãng mạn. Giọng điệu theo lối thơ tự do, lại gần với văn xuôi.

Qua tác phẩm “Bài thơ về Tiểu đội xe không kính” ta thấy được hình ảnh của người lính hiên ngang, dũng cảm, sôi nổi, có ý chí.

0
0
Dương Tú
25/05/2018 08:59:20

“Bài thơ về tiểu đội không kính” được Phạm Tiến Duật viết năm 1969 là bài thơ tự do mang phong cách đó.Mở đầu bài thơ là hình ảnh những chiếc xe không kính chắn gió hình ảnh có sức hấp dẫn đặc biệt vì nó chân thực, độc đáo, mới lạ. Xưa nay, hình ảnh xe cộ trong chiến tranh đi vào thơ ca thường được mỹ lệ hoá, tượng trưng ước lệ chứ không được miêu tả cụ thể, thực tế đến trần trụi như cách tả của Phạm

Tiến Duật. Với bút pháp hiện thực như bút pháp miêu tả “anh bộ đội cụ Hồ thời chống Pháp” của Chính Hữu trong bài Đồng chí (1948), Phạm Tiến Duật đã ghi nhận, giải thích về “những chiếc xe không kính” thật đơn giản, tự nhiên :

Không có kính không phải vì xe không có kính

Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi

Bom đạn ác liệt của chiến tranh đã tàn phá làm những chiếc xe ban đầu vốn tốt, mới trở thành hư hỏng : không còn kính chắn gió, không mui không đèn, thùng xe bị xước. Hìmh ảnh những chiếc xe không kính không hiếm trong chiến tranh chống Mỹ trên đường Trường Sơn lửa đạn nhưng phải là một chiến sĩ, một nghệ sĩ tâm hồn nhạy cảm, trực tiếp sẵn sàng chiến đấu cùng những người lính lái xe thì nhà thơ mới phát hiện được chất thơ của hình ảnh ấy để đưa vào thơ ca một cách sáng tạo, nghệ thuật.

Không tô vẽ, không cường điệu mà tả thực, nhưng chính cái thực đã làm người suy nghĩ, hình dung mức độ ác liệt của chiến tranh, bom đạn giặc Mỹ.

Mục đích miêu tả những chiếc xe không kính là nhằm ca ngợi những chiến sĩ lái xe. Đó là những con người trẻ trung, tư thế ung dung, coi thường gian khổ, hy sinh.

Trong buồng lái không kính chắn gió, họ có cảm giác mạnh mẽ khi phải đối mặt trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài. Những cảm giác ấy được nhà thơ ghi nhận tinh tế sống động qua những hình ảnh thơ nhân hoá, so sánh và điệp ngữ :

Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

Như sa như ùa vào buồng lái.

Những câu thơ nhịp điệu nhanh mà vẫn nhịp nhàng đều đặn khiến người đọc liên tưởng đến nhịp bánh xe trên đường ra trận. Tất cả sự vật, hình ảnh, cảm xúc mà các chiến sĩ lái xe trực tiếp nhìn thấy, cảm nhận đã biểu hiện thái độ bình tĩnh thản nhiên trước những nguy hiểm của chiến tranh, vì có ung dung thì mới thấy đầy đủ như thế. Các anh nhìn thấy từ “gió”,”con đường” đến cả “sao trời”, “cánh chim”. Thế giới bên ngoài ùa vào buồng lái với tốc độ chóng mặt tạo những cảm giác đột ngột cho người lái. Hình ảnh “những cánh chim sa, ùa vào buồng lái” thật sinh động, gợi cảm. Hình ảnh “con đường chạy thẳng vào tim” gợi liên tưởng về con đường ra mặt trận, con đường chiến đấu, con đường cách mạng.

Hiên ngang, bất chấp gian khổ, những người lính lái xe luôn lạc quan tin tưởng chiến thắng. Những câu thơ lặp cấu trúc tự nhiên như văn xuôi, lời nói thường ngày thể hiện hình ảnh đẹp, tự tin, có tính cách ngang tàng:

Không có kính, ừ thì có bụi,

Bụi phun tóc trắng như người già

Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

Không có kính, ừ thì ướt áo

Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời

Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa

Mưa ngừng, gió lùa khô, mau thôi.

Phạm Tiến Duật từng là thành viên của đoàn 559 vận tải chiến đấu ở Trường Sơn nên chất lính, tính ngang tàng thể hiện rõ nét trong thơ. Các chiến sĩ lái xe không hề lùi bước trước gian khổ, trước kẻ thù mà trái lại “tiếng hát át tiếng bom”, họ xem đây là cơ hội để thử thách sức mạnh ý chí. Yêu đời, tiếng cười sảng khoái của họ làm quên đi những nguy hiểm. Câu thơ “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” biểu lộ sâu sắc sự lạc quan ấy.

Tình đồng chí, đồng đội keo sơn gắn bó là phẩm chất của người lính. Những khoảnh khắc của chiến tranh, giữa sống chết, những người lính trẻ từ những miền quê khác nhau nhưng cùng một nhiệm vụ, lý tưởng đã gắn bó nhau như ruột thịt, gia đình :

Những chiếc xe từ trong bom rơi

Đã về đây họp thành tiểu đội

Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới

Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi, lại đi trời xanh thêm.

“Trời xanh thêm” vì lòng người phơi phới say mê trước những chặng đường đã đi và đang đến. “Trời xanh thêm” vì lòng người luôn có niềm tin về một ngày mai chiến thắng. Những người lính lái xe hiên ngang, dũng cảm, lạc quan, trẻ trung sôi nổi, giàu tình đồng chí đồng đội, có lòng yêu nước sâu sắc. Lòng yêu nước là một động lực tạo cho họ ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam, đánh bại giặc Mỹ và tay sai để thống nhất Tổ quốc :

Không có kính rồi xe không có đèn

Không có mui xe, thùng xe có xước

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:

Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Khổ thơ cuối cùng vẫn giọng thơ mộc mạc, mà nhạc điệu hình ảnh rất đẹp, rất thơ, cảm hứng và suy tưởng vừa bay bổng vừa sâu sắc để hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của những chiến sĩ vận tải Trường Sơn. Bốn dòng thơ dựng hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, bất ngờ thú vị. Hai câu đầu dồn dập những mất mát khó khăn do quân thù gieo xuống, do đường trường gây ra : xe không kính, không đèn, không mui, thùng xe bị xước …

Điệp ngữ “không có” nhắc lại ba lần như nhân lên những thử thách khốc liệt. Hai dòng thơ ngắt làm bốn khúc “không có kính/ rồi xe không có đèn / Không có mui xe / thùng xe có xước” như bốn chặng gập ghềnh, khúc khuỷu, đầy chông gai bom đạn. Hai câu cuối âm điệu đối chọi lại, trôi chảy, hình ảnh đậm nét. Đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở hướng ra tiền tuyến lớn với tình cảm thiêng liêng “vì miền Nam”, vì cuộc chiến đấu giành độc lập, thống nhất cho cả nước. Chói ngời, toả sáng khổ thơ, cả bài thơ là hình ảnh “trong xe có một trái tim” .

Cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ anh hùng của mỗi người cầm lái tích tụ, kết đọng ở “trái tim” gan góc, kiên cường, chứa chan tình yêu nước này. Ẩn sau ý nghĩa câu thơ “chỉ cần trong xe có một trái tim” là chân lý của thời đại chúng ta :sức mạnh quyết định, chiến thắng không phải là vũ khí, công cụ mà là con người giàu ý chí, anh hùng, lạc quan, quyết thắng. Có thể cả bài thơ hay nhất là câu cuối, “con mắt của thơ”, làm bật lên chủ đề, toả sáng vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trong bài thơ. Thiếu phương tiện vật chất nhưng những chiến sĩ vận tải Đoàn 559 vẫn hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ, nêu cao phẩm chất con người Việt Nam anh hùng như Tố Hữu đã ca ngợi :

Thiếu tất cả, ta rất giàu dũng khí

Sống chẳng cúi đầu, chết vẫn ung dung

Giặc muốn ta nô lệ, ta lại hoá anh hùng

Sức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo

“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một bài thơ đặc sắc tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm Tiến Duật cũng như một số tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Lửa đèn, Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, Nhớ,…Chất giọng trẻ, chất lính của bài thơ bắt nguồn từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam thời chống Mỹ mà chính nhà thơ đã sống, đã trải nghiệm. Từ sự giản dị của ngôn từ, sự sáng tạo của hình ảnh chi tiết, sự linh hoạt của nhạc điệu, bài thơ đã khắc hoạ, tôn vính vẻ đẹp phẩm giá con người, hoà nhập với cảm hứng lãng mạn cách mạng và âm hưởng sử thi hào hùng của văn học Việt Nam trong ba mươi năm chống xâm lược 1945 – 1975.

0
0
Quỳnh Anh Đỗ
25/05/2018 14:52:35

Những năm tháng chống Mĩ gian khổ và oanh liệt đã qua đi từ rất lâu rồi, nhưng không khí hào hùng và âm vang của nó thì còn mãi. Phạm Tiến Duật là một nhà thơ, nhưng chính ông cũng là một người chiến sĩ từng vào sinh ra tử trên các chiến trường. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của ông, có lẽ vì thế mà đã mang được trọn vẹn chất lính tráng hồn nhiên, phóng khoáng của những người lính lái xe tới người đọc, để chúng ta, những thế hệ đi sau thêm yêu mến và tự hào về những người chiến sĩ.

Bài thơ có một cái tên rất dài: “BÀi thơ về tiểu đội xe không kính” và cũng rất đặc biệt khi nhắc tới những chiếc xe không kính. Xe không kính là sao nhỉ? Phạm Tiến Duật đã hòa mình làm một người lính lái xe trên những chiếc xe đặc biệt ấy để cho ta câu trả lời:

Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung, kính vỡ đi rồi

Hóa ra nguồn gốc của những chiếc xe ấy là sự tàn phá của chiến tranh. Bom đạn dữ dội đã khiến cho những chiếc xe từ có kính thành không kính: không có kính không phải vì xe không có kính. Câu thơ sử dụng rất nhiều từ không nhưng lại là một câu khẳng định rất mạnh mẽ, rất bình thản như một cái gì đó quá bình thường vậy!
Đúng thế, có thể với chúng ta hôm nay, một chiếc xe oto mà không có kính thì sẽ nguy hiểm thế nào? Nhưng trong những năm tháng khốc liệt ấy, đó là chuyện bình thường lắm với những người lái xe. Bom giật bom rung là “nhịp đập” của chiến tranh, không gian khổ, hy sinh thì còn đâu là chiến tranh nữa? Và họ thấy nó là một phần của chiến tranh, họ sẵn sàng đương đầu và đón nhận nó bằng thái độ lạc quan, phớt đời đến như thế này:

Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái

“Ung dung buồng lái ta ngồi” – Câu thơ đặt chúng ta vào cuộc hành trình cùng những người chiến sĩ sau vô lăng. Mặc cho kính vỡ, họ vẫn ngồi “ung dung”, với đôi mắt vui tươi, cương nghị “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Tầm nhìn như mở rộng ra đến vô biên : cả đất trời ùa vào buồng lái, và người lái xe như đang bay, chứ không phải đang ngồi trong buồng lái xe đối mặt với hiểm nguy nơi chiến trường! Đọc đến đây, tôi thấy yêu sao cái nhìn của người lính lái xe, đôi mắt đắng xè đi vì gió thổi mạnh ấy không chịu lùi bước trước bất cứ điều gì. Bất kể ngày, hay đêm, những con đường vẫn lùi lại phía sau như “chạy thẳng vào tim” họ. Trên con đường đấy, họ bỏ qua tất cả, để cảm nhận những điều bất ngờ đầy thơ mộng như những vì sao hay cánh chim bay sà vào hòa chung khí thế!

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái

Hàng loạt các điệp từ như :thấy, như lặp lại như những vòng quay liên tiếp của chiếc bánh xe trên tiền tuyến. Xe vẫn chạy dù không có kính, mắt họ vẫn nhìn thẳng phía trước dù có gió xoa đắng ngắt, và trái tim họ vẫn rộng mở đón vào buồng lái cả đất trời. Khổ thơ đầu tiên vì thế đã mở ra không gian rộng lớn và không khí tươi vui, lạc quan của những chiếc xe không kính trong kháng chiến chống Mỹ.

Không có kính ừ thì có bụi
Không có kính ừ thì ướt áo

Trong hai khổ thơ tiếp theo, Phạm Tiến Duật đã mượn chính cách nói của những người lính lái xe để kể về những gian khổ mà các anh phải đối mặt trên những chiếc xe không kính: bụi phun tóc trắng như người già, mưa tuôn mưa xối như ngoài trời. Không có kính che chắn, mưa gió, bụi bặm trong những chuyến đi dài tha hồ mà sà vào. Mà cái nắng Trường Sơn nào phải cái nắng bình thường, cái mưa Trường Sơn nào phải mưa bụi, mưa phùn. Ấy là cái nắng bỏng rát, là cơn mưa rào xối xả, trắng trời trắng đất đến bạt ca tay lái. Như có lời bài hát:

Trường Sơn Đông, Trường Sơn tây
Bên nắng gió, bên mưa quay

Điệp khúc “không có kính” lặp lại khẳng định sự thiếu thốn của các anh, nhưng hai tiếng “ừ thì” tiếp theo lại phá vỡ hoàn toàn cái “không” ấy để vút lên thành giọng điệu lính tráng rất vô tư, phớt đời của các anh! Ừ thì thế này, ừ thế thế kia, tất cả chỉ là cái thường nhật của cuộc chiến tranh. Và đối mặt với nó, là nụ cười hồn nhiên, phóng khoáng chẳng hề vướng bận:

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

Âm điệu giòn giã của tiếng cười “ha ha” ấy xua đi mọi khó khăn, gian khổ trên đường đi. Các anh tìm ra trong thiếu thốn những niềm vui đủ đầy, những niềm vui mà không ai khác ngoài những người lính lái xe mới có! Cơn mưa tuôn, mưa xối kia, những bụi bặm mù mịt kia là “gia vị” của đời lính. Gió làm khô áo, và cũng thổi bay đi những cái gì ủy mị, để lại nguyên vẹn trong các anh sự trẻ trung, phóng khoáng như những cánh chim tự do trên con đường chiến đấu bảo vệ nền độc lập dân tộc.

Những chiếc xe không kính trên đường ra tiền tuyến gặp biết bao khó khăn, nhưng nó không làm cho những người lính lùi bước, nản lòng. Ngược lại, chính nó lại trở thành chất keo gắn kết những con người xa lạ thành đồng chí, anh em:

Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi

Cửa kính vỡ trở thành nơi những bàn tay dãi dầu nắm chặt lấy nhau. Khó khăn, gian khổ kéo họ xích lại. Trong bom rơi, họ hợp lại với nhau thành một tiểu đội, thành những người có chung chí hướng. Nhưng hơn thế, mỗi km đường đi lại thành km tình nghĩa bởi họ không chỉ là đồng chí, họ còn là anh em ruột thịt:

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

KHổ thơ đã ghi lại những giây phút dừng chân đầy tình yêu thương, đầm ấm của những người lính lái xe. Sau những giây phút làm nhiệm vụ sau buồng lái, vượt qua bom đạn kẻ thù, họ dừng chân cùng nhau chia sẻ từng bát cơm, hạt gạo như một gia đình đông an hem. Hình ảnh chiếc bếp HOàng Cầm ấm cúng và những người lính ngồi cạnh nhau nghỉ ngơi khiến lòng ta bình yên lại. Bởi giữa cái khốc liệt của chiến tranh thì khoảnh khắc ấy đẹp quá! Nó khiến người ta có thêm niềm tin và động lực để đi tiếp:

Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi lại đi trời xanh thêm

Trên những chiếc xe không kính là cả bầu trời bao la rộng lớn chở che cho các anh. Chúng ta không thể quên những chiếc võng mắc trên thùng xe, các anh nằm chợp mắt hay kể chuyện vặt, hay đánh đàn và hát rộn vang theo nhịp của những bánh xe lăn tròn. Cuộc chiến đấu gian nan vất vả của những người lính lái xe trong kháng chiến chống Mỹ được Phạm Tiến Duật khắc họa thật chân thực và sống động biết mấy. Chỉ hai từ “chông chênh” mà cho người đọc cảm thấy như chính mình đang cùng ngồi với các anh trên chiếc võng Trường Sơn ấy!

Từ đầu bài thơ đến tận khổ cuối, chúng ta thấy xuất hiện rất nhiều những từ “không” và đến khổ cuối thì điệp khúc “không” đó được nhấn mạnh liên tiếp:

Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước

Không chỉ “không có kính”, những chiếc xe trong kháng chiến chống Mỹ còn thiếu thốn đủ thứ: từ đèn tới mui xe, thùng xe cũng xước hết vì những hủy hoại tàn khốc của bom đạn chiến tranh. Nó tố cáo bản chất ác liệt của chiến tranh và đồng thời cũng làm nổi bật trước mắt người đọc một cái “có” ngời sáng toàn bài thơ:

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim

Đọng lại cuối bài thơ là hình ảnh “trái tim” – biểu tượng cho tình yêu Tổ quốc, cho khát vọng chiến đấu bảo vệ độc lập tự do, thống nhất nước nhà của thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mỹ. Tất cả những khó khăn, gian khổ kia chẳng là gì so với lòng nhiệt huyết và khát vọng sục sôi của những người thanh niên yêu nước. Nó chỉ càng mài giũa thêm cho họ sức mạnh để chiến thắng tất cả để hành động, để tiến lên phía trước như những chiếc xe không ngừng chi viện cho miền Nam thân yêu.

Như vậy, toàn bộ bài thơ nhắc nhiều tới cái khó khăn, gian khổ của người lính lái xe, nhưng cái đọng lại lại là niềm tin, là tình yêu miền Nam, tình yêu đất nước. Bài thơ làm sáng ngời chất lính rất hồn nhiên, phóng khoáng của thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mỹ. Phạm Tiến Duật bằng chính tài năng và những trải nghiệm sâu sắc của bản thân đã truyền cho thế hệ trẻ ngày ấy niềm lạc quan, yêu đời để chiến đấu và chiến thắng. Còn đến hôm nay, tuy chiến tranh đã lùi xa, nhưng “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” vẫn khiến chúng ta yêu mến vô cùng. Bởi nhìn vào đó, chúng ta thấy được không khí của cả thời chống Mỹ, nhìn vào đó thấy được vẻ đẹp tâm hồn của thế hệ cha anh, để tự hối thúc bản thân sống có ích hơn, sống lạc quan hơn!

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 9 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k