Truyện đồng thoại vốn là khái niệm thân thuộc, nhất là với thiếu nhi, vậy truyện đồng thoại là gì? Khái niệm truyện đồng thoại trong văn học Việt Nam vốn vay mượn từ Trung Hoa. Nhưng trong quá trình sử dụng, truyện đồng thoại đã được quy ước lại, thể hiện cách hiểu riêng của nền văn học Việt Nam.Truyện đồng thoại trong cách hiểu của người Trung Hoa thực chất là truyện cổ tích.
Khác với Trung Hoa, chúng ta không đồng nhất truyện đồng thoại với truyện cổ tích, mà xem đó là hai thể loại hiện đại, có quan hệ họ hàng nhưng trước sau vẫn là hai thực thể độc lập, mang những tố chất thẩm mĩ riêng. Việt Nam dùng khái niệm truyện đồng thoại để chỉ một thể loại tự sự hiện đại dành cho trẻ em.
Theo nhà văn Tô Hoài thì “truyện đồng thoại là một thể loại văn học dành cho thiếu nhi, lấy loài vật làm nhân vật, lúc nào cũng thích hợp. Nhân vật trong truyện đồng thoại được nhân cách hóa trên cơ sở đảm bảo “không thoát li sinh hoạt thật có của loài vật”, đồng thời không xa rời cái nhìn theo thói quen của các em”. Như vậy có thể hiểu truyện đồng thoại là truyện viết cho trẻ em, có nhân vật là loài vật hoặc con vật được nhân cách hóa.
Các nhân vật này vừa mang những đặc tính vốn có của loài vật hoặc con vật, vừa mang đặc điểm của con người. Truyện đồng thoại được kể chuyện vật mà gợi chuyện người nhằm đưa đến cho các em những bài học giáo dục về nhận thức và thẩm mĩ..
Lịch sử của truyện đồng thoại
Theo Hoàng Vân Sinh, “từ đồng thoại ở Trung văn được du nhập từ Nhật Bản, xuất hiện ở Trung Quốc vào cuối thời nhà Thanh. Dấu mốc đầu tiên của nó là bộ Tùng thư đồng thoại do Tôn Dục Tu chủ biên, Thương vụ ấn thư quán xuất bản năm 1909”(Hoàng Vân Sinh,2001,tr.1). Ở Nhật, những truyện kể cho trẻ em được gọi là dowa, dịch sang Hán ngữ là đồng thoại.
Đồng thoại là Danh từ đồng thoại xuất hiện trong Việt ngữ được ghi nhận lần đầu tiên bởi công trình Hán – Việt từ điển của Đào Duy Anh (Quan hải tùng thư xuất bản, 1932).
Rất nhiều năm sau, nó mới được sử dụng vào việc đặt tên cho một tuyển tập văn học. Đó là cuốn Cổ kim đồng thoại do Lê Văn Chánh biên soạn dựa trên nguồn tư liệu phương Tây, với mục đích giúp vào việc giáo dục trẻ em.
Ở Việt Nam, truyện đồng thoại hiện đại xuất hiện cùng với quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ XX và ít nhiều gây được tiếng vang với tác phẩm Dế mèn phiêu lưu ký của Tô Hoài.
Dù vậy, trong giai đoạn từ 1930 đến 1945, giới lí luận phê bình đương thời chưa chú ý đến truyện đồng thoại. Từ năm 1945 đến nay, truyện đồng thoại được đề cập tới trong một số chuyên luận, giáo trình, bài báo khoa học, bài đọc sách, lời bình…
Những yếu tố trong truyện đồng thoại
Cốt truyện là yếu tố quan trọng cùa truyện kể, gồm các sự kiện chinh được sắp xếp theo một trật tự nhất định. Cốt truyện có mờ đầu, diễn biến và kết thúc.
Nhân vật là đối tượng có hình dáng, cử chỉ, hành động, ngôn ngữ, cảm xúc, suy nghĩ,… được nhà văn khắc hoạ bên trong trong tác phẩm. Khi đọc truyện ta sẽ xác định nhân vật chính là những nhân vật thể hiện quan điểm tư tưởng của câu chuyện. Bên cạnh đó cũng có nhân vật phụ. Nhân vật thường là con người nhưng cũng có thể là thần tiên, ma quỷ, con vật. đồ vật,…
Người kể chuyện là nhân vật do nhà văn tạo ra để kể lại câu chuyện. Người kể chuyện có thể xuất hiện trực tiếp trong tác phẩm, xưng tôi ngôi thứ nhất để kể lại những gì mình chứng kiến hoặc trải qua. Hoặc người kể chuyện giấu mình, không tham gia vào câu chuyện, câu chuyện được kể theo ngôi thứ ba.
Lời người kể chuyện đảm nhận việc thuật lại các sự việc trong câu chuyện, bao gồm cà việc thuật lại mọi hoạt động cùa nhân vật vả miêu tả bối cảnh không gian, thời gian của các sự việc, hoạt động ấy.
Lời kể chuyện thuật lại câu chuyện, hoạt động nhân vật. Bên cạnh lời người kể chuyện còn có lời nhân vật là lời nói trục tiếp cùa nhân vật.Lời nhân vật là lời nói trực tiếp cùa nhân vật có thể là đối thoại hoặc độc thoại. Ngoài ra lời nhân vật là lời nói cùa nhân vật, có thể được trình bày tách riêng hoặc xen lẫn với lời người kề chuyện.