song thất lục bát là một thể thơ rất được ưa chuộng tại Việt Nam. Song là 2, Thất là 7, Lục là 6, Bát là 8. Song Thất Lục Bát là thể thơ mà hai câu đầu mỗi câu 7 chữ, gọi là Song Thất. Liền theo là một câu 6 chữ và một câu 8 chữ, gọi là Lục Bát. Có rất nhiều tác phâm nổi tiếng được viết theo thể thơ này. Có thể kể đến như: Chinh phụ ngâm khúc...
Cách gieo vần của thể thơ song thất lục bát được quy định như sau: Chữ thứ 5 câu 7 đầu tiên vần Bằng (B). Chữ cuối câu 7 đầu tiên ở vần Trắc(T), ăn vần với chữ thứ 5 của câu 7 thứ nhì (cũng vần Trắc). Chữ cuối câu 7 thứ nhì vần Bằng, ăn vần với chữ cuối câu 6 (vần Bằng). Chữ cuối câu 6 vần Bằng , ăn vần với chữ thứ 6 câu 8 (vần Bằng). Chữ cuối câu 8 vần Bằng, lại ăn vần với chữ thứ 3 hoặc chữ thứ 5 của câu 7 đầu tiên trong khổ thơ tiếp theo. Chữ thứ 5 này vần Bằng. Chữ thứ 3 linh động hơn, khi ăn vần với câu trước thì phải là vần Bằng, nếu không ăn vần với câu trước thì Trắc, Bằng gì cũng được.
Ví dụ:
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm từng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?
Trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt,
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây.
Chín lần gươm báu trao tay,
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.
Nước thanh bình ba trăm năm cũ,
Áo nhung trao quan vũ từ đây.
Sứ trời sớm giục đường mây,
Phép công là trọng niềm tây sá nào.
Chinh Phụ Ngâm Khúc -Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm
Thể thơ này không bắt buộc phải có các cặp đối, nhưng hai câu thất, số chữ bằng nhau, nếu các thi nhân có thể viết thành một cặp đối :
Ví dụ:
Câu cẩm-tú đàn anh họ Lý
Nét đan-thanh bậc chị chàng Vương
Mùi phú-quí nhử làng xa-mã,
Bả vinh-hoa lừa gã công-khanh
Cầu Thệ-thủy ngồi trơ cổ-độ
Quán Thu-phong đứng rũ tà-huy
Cung oán ngâm khúc - Nguyễn Gia Thiều
Hay:
Trống Tràng Thành (2) lung lay bóng nguyệt,
Khói Cam Tuyền (3) mờ mịt thức mây.
Chàng thì đi cõi xưa mưa gió,
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn.
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.
Chốn Hàm Dương (19) chàng còn ngoảnh lại,
Bến Tiêu Tương (20) thiếp hãy trông sang.
Chinh phụ ngâm khúc
Là một thể thơ đặc biệt của người Việt, song thất lục bát cùng với lục bát rất được các tác giả ưa chuộng trong suốt thời kì văn học trung đại Việt Nam. Thể thơ này phát triển mạnh vào thế kỉ 18 cho đến tận đầu thế kỉ 20. Nhiều tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam đã sử dụng thể thơ này như bản dịch Chinh phụ ngâm - Đoàn Thị Điểm, Ai tư vãn - Lê Ngọc Hân, Văn tế thập loại chúng sinh - Nguyễn Du, Cung oán ngâm khúc -Nguyễn Gia Thiều, Tự tình khúc - Cao Bá Nhạ. Sau khi phong trào thơ mới xuất hiện, song thất lục bát không còn được các nhà thơ ưa chuộng nữa. Các tác phẩm thuộc thể thơ này ngày càng hiếm gặp, có lẽ một phần do những quy định về vần luật phức tạp và khó khăn của nó.