Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Thuyết trình về một trong những bài thơ Mới ngắn gọn 15-20 dòng(Hầu trời, Vội vàng, Đây thôn Vĩ Dạ)

Giúp em viết ngắn gọn 15-20 dòng với ạ thanks
----- Nội dung dịch tự động từ ảnh -----
Thuyết trình về một trong những bài thơ Mới
ngắn gọn 15-20 dòng(Hầu trời, Vội vàng,
Đây thôn Vĩ Dạ)
2 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
171
2
1
Tr Hải
24/02/2023 23:26:33
+5đ tặng

Tản Đà là đại diện tiêu biểu của kiểu nhà nho tài tử buổi giao thời, là người đầu tiên Mang văn chương ra bán phố phường. Sáng tác của Tản Đà thể hiện một cá tính nghệ sĩ tài hoa, tài tử. Tản Đà viết cả văn và làm thơ nhưng ông nổi tiếng với tư cách nhà thơ hơn. Thơ Tản Đà mang màu sắc cổ điển về hình thức và mới mẻ về nội dung, ông được gọi là cầu nối giữa hai thời đại văn học trung đại và hiện đại. Là thi sĩ tài hoa và đa tình, ông viết nhiều về tình yêu. Đồng thời thơ Tản Đà còn thể hiện tính dân tộc rõ nét từ hình thức đến nội dung. Trong thơ ông, lòng yêu nước, yêu quê hương được biểu hiện rất phong phú và đa dạng, khi thì trực tiếp, khi thì gián tiếp.

Hầu Trời được xếp trong tập Còn chơi (1921) là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Tản Đà. Bài thơ được viết dưới dạng tự sự, kể một tình huống tưởng tượng cảnh nhà thơ lên gặp trời để ngâm thơ cho trời nghe. Qua đó thể hiện ý thức cá nhân và thái độ của nhà thơ về nghề văn, về cuộc đời.

Tản Đà được coi là người nằm vắt mình qua hai thế kỉ, là gạch nối giữa thơ mới và thơ cũ, là người đặt nền móng cho thơ mới. Những đánh giá ấy đã xác nhận vị trí quan trọng của Tản Đà đối với văn học Việt Nam giai đoạn giao thời. Ông là đại diện tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn này, giai đoạn văn học dân tộc có những bước chuyển mình, bắt đầu cho giai đoạn hiện đại hóa mau lẹ. Hầu Trời là một bài thơ có rất nhiều điểm mới. Bài thơ thể hiện đậm nét cá tính sáng tác của Tản Đà. Mạch thơ được triển khai theo logic một câu chuyện với các chi tiết cụ thể, rành mạch, khiến cho bài thơ hấp dẫn và có sức thuyết phục: nằm một mình, buồn nên dậy đun nước uống rồi ngâm văn, động đến trời, tiên xuống hỏi rồi đưa lên gặp trời, trời cùng chư tiên đón tiếp long trọng, mời đọc thơ, giới thiệu về mình rồi đọc thơ và giãi bày cảnh ngộ cùng trời, trời giải thích, khen ngợi rồi cho đưa về trần giới. Nhà thơ đã chọn một cách rất độc đáo để thể hiện tâm sự của mình.

Chuyện hầu Trời bằng tưởng tượng đã giúp nhà thơ khẳng định tài năng của bản thân và bộc lộ quan niệm mới mẻ của ông về nghề văn, đồng thời thể hiện ý thức của cái Tôi cá nhân đầy cá tính của mình. Nhà thơ đã mở đầu câu chuyện của mình bằng một giọng điệu rất hấp dẫn, bịa mà rất tự nhiên, hóm hỉnh:

Đêm qua chẳng biết có hay không.
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Thật được lên tiên - sướng lạ lùng.

Lí do được Trời mời lên hầu cũng thật đời thường và dễ tin: Nằm buồn dậy đun nước uống, rồi ngâm thơ, chơi trăng. Và Tiếng ngân vang cả sông Ngân Hà đã làm trời mất ngủ. Thế là được lên Trời.

Cuộc hội kiến với Trời và chư tiên được kể lại chi tiết, hồn nhiên, nghe tự nhiên như thật. Tác giả đã chọn lối kể chuyện nôm na của dân gian để tái hiện câu chuyện hầu Trời.

Nhà thơ tưởng tượng tình huống gặp Trời để giới thiệu về mình. Giới thiệu rõ, chính xác tên tuổi, quê hương, đất nước, nghề nghiệp, kể tên các tác phẩm của mình. Nhà thơ đã chọn tình huống độc đáo: gặp trời, ngâm thơ cho trời cùng chư tiên nghe, qua đó khẳng định tài năng của mình.

Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè trời nhấp giọng càng tốt hơn.
Văn dài, hơi tốt ran cung mây!...

Tự khen tài của mình nhưng lại chọn hình thức để trời cùng chư tiên khen ngợi. Đây là một kiểu ngông đáng yêu.

Sau khi giới thiệu các tác phẩm, có phân chia rõ ràng thành từng loại theo quan điểm của bản thân (văn thuyết lí, văn chơi, văn tiểu thuyết, văn vị đời và lối văn dịch) thì đưa ra nhận xét, cùng với những nhận xét của trời Văn đã giàu thay, lại lắm lối (đa dạng về thể loại, giọng điệu). Nhà thơ lại còn mượn lời của trời để khẳng định tài năng của bản thân:

Trời lại phê cho: Văn thật tuyệt

Văn trần được thế chắc có ít!..
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!

Nhà thơ đã hiên ngang khẳng định cái Tôi của mình, gắn liền với tên tuổi thật của mình. Đó là thái độ ngông của người có tài và biết trân trọng, khẳng định tài năng của mình. Trong thời đại của Tản Đà, đất nước đang mất chủ quyền, tự giới thiệu như còn là biểu hiện của sự tự hào, tự tôn dân tộc. Hóm hỉnh hơn, nhà thơ còn khẳng định cả phong cách ngông của mình:

Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Đày xuống hạ giới vì tội ngông.

Qua cuộc đối thoại tưởng tượng với trời, nhà thơ còn khẳng định nghĩa vụ và trách nhiệm cao cả của mình nói riêng và của người nghệ sĩ nói chung là lo việc thiên lương của nhân loại:

Trời rằng: Không phải là Trời đày,
Trời định sai con một việc này
Là việc thiên lương của nhân loại,
Cho con xuống thuật cùng đời hay.

Tạo tình huống tưởng tượng này để an ủi mình, đồng thời cũng là để nói lên ý nghĩa cao quý của văn chương, của nhà văn.

Cũng nhân đây, nhà thơ giãi bày tâm sự của mình về nghề văn. Tản Đà được coi là người đặt nền móng cho Thơ mới, không chỉ bởi thơ ông mang hơi thở hiện đại của thời đại với cái Tôi cá nhân sừng sững giữa trang văn mà còn vì ông là nhà thơ đầu tiên mang văn chương ra bán phố phường, coi nghề văn là nghề kiếm sống. Khi giãi bày cảnh ngộ với Trời, nhà thơ đã kể lể rất chi tiết về nghề làm văn kiếm sống này. Tản Đà cũng đã dùng lời Trời để tự an ủi mình.

Với Hầu Trời, Tản Đà đã mang đến cho văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX một câu chuyện tưởng tượng vui và đầy không khí mới. Dưới hình thức một bài thơ hào hứng, nhà thơ đã khẳng định cái Tôi cá nhân của người nghệ sĩ. Nhà thơ vừa tự tin khẳng định tài năng của mình vừa nói lên quan điểm làm văn chương, đó là viết văn để phục vụ thiên lương. Viết văn hay làm cho đời đẹp hơn là .nhiệm vụ trời đã trao cho người nghệ sĩ.

Sáng tạo độc đáo về mặt nghệ thuật của Tản Đà là đã đưa ngôn ngữ đời thường nôm na, dễ hiểu, dung dị mà vẫn rất gợi cảm vào thơ ca. Ngôn ngữ thơ ở Hầu Trời đã có sự xâm nhập của giọng điệu văn xuôi và ngôn ngữ bình dân. Không quá câu nệ vào vần luật nên mạch cảm xúc được phát triển rất tự nhiên và cái Tôi cá nhân đã thỏa sức bộc lộ và thể hiện mình. Điểm độc đáo và thành công của bài thơ còn thể hiện ở chỗ tạo ra cái cớ là tình huống hầu Trời để tự khẳng định tài năng và quan niệm của mình. Đó là một kiểu ngông rất nghệ sĩ, vui vẻ và đáng yêu. Bài thơ cũng đã phác họa một chân dung thi sĩ Tản Đà với phong cách ngông độc đáo, đó là cái ngông của một nhà nho tài tử ở thời kì mà ý thức cá nhân bắt đầu được trân trọng và khẳng định.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Tiến Dũng
25/02/2023 05:15:11
+4đ tặng

Trong cuốn Thi nhân Việt Nam Hoài Thanh viết: "Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này - Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình". Thơ Xuân Diệu bộc lộ hồn thơ trẻ trung, nồng nàn và tình yêu cuộc sống đến độ đam mê ấy thể hiện rất rõ trong bài thơ Vội vàng. Bài thơ cũng thể hiện quan niệm nhân sinh của Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám.

Về cấu tứ bài thơ: Bài thơ là một phép biện chứng tâm hồn: Xuân Diệu rất yêu cuộc sống nhất là tuổi trẻ nhưng nhà thơ cũng rất sợ mất nó, nghĩ đến điều đó không tránh khỏi tiếc nuối buồn bã, để không hoang phí cái đẹp một cách vô ích nên cuối cùng nhà thơ chạy đua với thời gian, vội vàng hưởng mọi vẻ đẹp mà đời đã ban cho. Đó là lý lẽ của thái độ sống "vội vàng" . Bài thơ thể hiện cái tôi trữ tình tràn đầy cảm xúc với những trạng thái phức tạp, yêu mãnh liệt nhưng sau đó lại dỗi hờn, buồn chán tuyệt vọng, rồi bừng dậy một tình yêu sôi nổi để tận hưởng hết vẻ đẹp của cuộc đời.

Bài thơ chủ yếu nói đến mối quan hệ giữa thời gian với cái đẹp của cuộc sống và đời người - nhất là tuổi trẻ. Vì thời gian mà dẫn đến một lối sống, thái độ sống.

Ý thức về sự chảy trôi của thời gian nên tác giả có khát vọng rất nghệ sĩ là muốn níu giữ thời gian:

Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất,

Tôi muốn buộc gió

Cho hương đừng bay đi.

Trong thơ Xuân Diệu, cơn gió và dòng nước trôi thường là biểu tượng của thời gian. Ở bài thơ này nắng và gió là hình ảnh cụ thể của thiên nhiên và là biểu tượng của thời gian. Hương và màu là hình ảnh cụ thể nhưng cũng là biểu tượng cho mùa xuân - cái đẹp.

Tác giả đã dùng những động từ mạnh: tắt (nắng), buộc (gió) để thể hiện ý muốn đoạt quyền của tạo hóa, muốn giữ lại màu và hương của mùa xuân. Muốn cưỡng lại quy luật của tự nhiên để giữ mãi cái đẹp của cuộc sống là một khát vọng rất nghệ sĩ - thể hiện tình yêu cuộc sống mãnh liệt, bất chấp mọi quy luật. Câu thơ ngắn, giọng thơ mạnh cũng góp phần thể hiện thái độ vội vã, tâm hồn trẻ trung, đầy sức sống của tác giả.

Tác giả muốn đoạt quyền tạo hóa để giữ lấy mãi mùa xuân vì mùa xuân đẹp quá:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật

Này đây hoa của đồng nội xanh rì

Này đây lá của cành tơ phơ phất

Của yến anh này đây khúc tình si

Cách miêu tả mùa xuân của Xuân Diệu rất mới. Câu thơ thứ nhất và thứ tư có cú pháp mới, đảo trật tự thành phần câu nhằm tô đậm hương vị, âm thanh để thấy được trong mùa xuân: thời gian là mật ngọt, không gian là âm nhạc. Tác giả không chỉ chú ý đến cảnh sắc, âm thanh mà tập trung diễn tả mức độ, mật độ dày và đậm của hình ảnh, chi tiết. Nhà thơ còn cảm nhận bằng nhiều giác quan: tuần tháng mật, xanh rì, cành tơ, khúc tình si… để từ đó làm nổi bật vẻ đẹp mùa xuân vừa tươi tốt, nồng nàn, tràn trề sinh lực vừa duyên dáng, hân hoan. Vẻ đẹp của mùa xuân còn được cảm nhận qua cảm giác thích thú:

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi

Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.

Ánh nắng xuân tươi đã làm vui con mắt, làm thích cái nhìn. Lối so sánh mới lạ, táo bạo: tia nắng bình minh được xem như hàng mi mắt của người thiếu nữ, bình minh vừa thức dậy và vài cái chớp mắt là ánh sáng tinh khôi tràn về muôn nơi và đến gõ cửa mọi nhà! Ở bài thơ khác nhà thơ so sánh ngược lại:

Tà áo mới cũng say múi gió nước

Rặng mi dài xao động ánh dương vui.

(Xuân đầu)

Và chỉ đến Xuân Diệu, mùa xuân mới được cảm nhận tinh tế ở góc độ ánh sáng tươi vui.

Nói tóm lại, mùa xuân có vẻ đẹp hồng hào, tươi tắn, nồng nàn như đôi môi quyến rũ của người con gái mà tác giả khao khát muốn tận hưởng. Khác với thi pháp cổ điển và đưa ra quan điểm thẩm mĩ mới, Xuân Diệu cho rằng cái đẹp của con người mới tuyệt vời, chuẩn mực cho mọi vẻ đẹp của tạo hóa.

Thủ pháp nghệ thuật nổi bật trong đoạn thơ là điệp ngữ: này đây dồn dập, nó liệt kê hàng loạt vẻ đẹp của mùa xuân và nói lên sự phong phú như bất tận của mùa xuân, thiên nhiên như dọn cỗ bàn đầy ắp với những thức ngon sẵn có cho con người. Tác giả đã nhận và muốn tận hưởng hết vẻ đẹp mà tạo hóa đã ban cho, không nên để nó quá rồi lại nuối tiếc:

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

Đây chính là tư tưởng cốt yếu của bài thơ: tranh thủ thời gian, tận hưởng hết vẻ đẹp cuộc sống nên dẫn đến thái độ sống vội vàng. Nhạc điệu chung của đoạn thơ là sôi nổi, si mê.

Tác giả đã cảm thức được bước đi quyết liệt của thời gian:

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già

Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.

Cách cảm nhận thời gian tịnh tiến, thơ ca xưa nay đã nói nhiều: "Đông qua xuân đã tới liền / Hè về rực rỡ, êm đềm thu sang", nhưng (với tiết tấu thơ nhanh) chỉ có Xuân Diệu mới thấy được trong cái đẹp đã chớm vị tàn phài, cùng một lúc nhà thơ vừa được trong cái đẹp đã chớm vị tàn phai, cùng một lúc nhà thơ vừa thấy xuân đến mà cũng thấy xuân đi. Điệp ngữ nghĩa là như nhấn mạnh, rồi day đi day lại cái quy luật phũ phàng: Thời gian trôi đi quá nhanh, cái đẹp rồi sẽ không còn nữa, tuổi trẻ sẽ đi qua. Tác giả tiếc cho cái đẹp - cái hữu hạn của đời người nên giọng thơ trở nên hờn dỗi:

Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật

Không cho dài thời trẻ của nhân gian,...

Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;

Nỗi niềm luyến tiếc mùa xuân - tuổi trẻ, là tiếc sự sống. Đó là biểu hiện của lòng yêu đời ham sống, ý thức giá trị của sự sống. Tiếc mùa xuân ngay giữa mùa xuân, tiếc tuổi trẻ đang khi còn trẻ tuổi là sự trỗi dậy của ý thức về cái đẹp vô giá của cuộc sống nên cần phải tranh thủ thời gian, sống như thế nào cho có ý nghĩa, xứng đáng với đời người. Đó là một quan niệm nhân sinh. Thời gian vô tri, lạnh lùng đã âm thầm tàn phá không thương tiếc cái đẹp. Khi cái đẹp tàn phai thì tự nhiên đối kháng với con người: lòng tôi rộng nhưng trời chật, còn trời đất nhưng chẳng còn tôi và thiên nhiên cũng mất đi cái vui tự nhiên của nó:

Mùi tháng năm điều rớm vị chia phôi

Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt...

Con gió xinh thì thào trong lá biếc,

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

Mùa xuân, tuổi trẻ đều chảy trôi theo thời gian, theo nhịp tuần hoàn của vũ trụ. Tác giả bất lực trước sự ra đi của cái đẹp, mùa xuân và thấy đời người hữu hạn nên câu thơ chùng xuống buồn não nuột:

Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa.

Thế nhưng tác giả không buông xuôi theo sự sắp đặt của tạo hóa mà vùng lên tranh thủ chạy đua với thời gian, dẫn đến thái độ sống đặc biệt:

Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm

Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng,

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,

Cho no nê thanh sắc của thời tươi;

- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

Cụm từ "Ta muốn ôm" đứng riêng thành dòng thơ như để nhấn mạnh, khẳng định niềm khát khao mãnh liệt, vừa dựng lên hình ảnh một con người đang dang rộng đôi tay muốn ôm trọn mọi vẻ đẹp vào lòng để tận hưởng no nê. Nhờ tình yêu cuộc sống cuồng nhiệt, tác giả đã tranh thủ lấy được vẻ đẹp của mùa xuân khi thời gian chưa tàn phá. Cái đẹp vẫn còn sự tươi mới nồng nàn đầy sinh khí: sự sống... mơn mởn... Giọng thơ gấp gáp, sôi nổi, kết hợp với điệp ngữ "Ta muốn" diễn tả niềm khao khát ráo riết, cuống quýt, vội vàng, muốn được sống no nê, đủ đầy. Những động từ mạnh: ôm, riết, thâu, cắn diễn tả hoạt động nhanh, mạnh, thiên về cảm giác. Tác giả như muốn vồ vập, ngấu nghiến để tận hưởng no nê vẻ đẹp của cuộc sống, thể hiện tình yêu cuộc sống cuồng nhiệt tột cùng. Tác giả đã mở rộng mọi giác quan để tận hưởng và sống hết mình cho mùa xuân, tuổi trẻ:

Sống toàn tâm toàn trí, sống toàn hồn

Sống toàn thân và thức mọi giác quan.

Bài thơ Vội vàng thể hiện ý thức về giá trị của cuộc sống. Nhất là mùa xuân - tuổi trẻ. Từ đó tác giả bộc lộ tình yêu đắm đuối, cuồng nhiệt, say mê cuộc sống và tuổi trẻ - một cái đẹp có thực nơi trần thế, không phải nơi hoang tưởng xa lạ nào trong các thuyết giáo. Bài thơ đem đến một nhân sinh quan tích cực phải biết sống đủ đầy, sống có ý nghĩa, biết tận hưởng những vẻ đẹp mà cuộc sống ban tặng, đừng để cuộc đời, nhất là tuổi trẻ trôi qua một cách hoang phí vô ích.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k
Gửi câu hỏi
×