Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích Đoàn thuyền đánh cá

Phân tích Đoàn thuyền đánh cá 
5 trả lời
Hỏi chi tiết
70
Tham khảo câu trả lời từ Trợ lý ảo Lazi
Đoàn thuyền đánh cá là một bức tranh của họa sĩ người Hà Lan Willem van de Velde the Younger, được hoàn thành vào năm 1680. Bức tranh miêu tả một đoàn thuyền đánh cá đang trên đại dương, với những con cá được kéo lên từ đáy biển và các thủy thủ đang làm việc để thu hoạch chúng.

Bức tranh này được tạo ra trong thời kỳ hoàng kim của nghệ thuật Hà Lan, khi nghệ thuật thủy thủ đang trở thành một chủ đề phổ biến. Nó thể hiện sự tinh tế và chân thực trong việc miêu tả các chi tiết của đoàn thuyền đánh cá, từ những con cá được kéo lên đến các thủy thủ đang làm việc trên tàu.

Điểm đáng chú ý của bức tranh là cách mà nó tạo ra một cảm giác chuyển động và động lực, với các con sóng lớn và những chiếc thuyền đang di chuyển trên mặt nước. Nó cũng thể hiện sự tôn trọng của nghệ thuật Hà Lan đối với thiên nhiên và cuộc sống hàng ngày của người dân.

Tổng thể, Đoàn thuyền đánh cá là một bức tranh đẹp và đầy ý nghĩa, thể hiện sự tinh tế và chân thực của nghệ thuật Hà Lan trong thời kỳ hoàng kim của nó.
1
2
Hoàng Hiệp
10/06/2023 14:52:15
+5đ tặng

Nhắc đến phong trào thơ mới không thể không nhắc tới nhà thơ Huy Cận. Trong suốt cuộc đời làm thơ của mình, ông đã cho ra đời nhiều tác phẩm hay như Vũ trụ ca, Lửa thiêng. Giọng thơ của Huy Cận có sự biến chuyển theo thời cuộc và mang hơi thở của cuộc sống. Năm 1958, ông đã sáng tác bài thơ Đoàn thuyền đánh cá khi đang tham gia chuyến thực tế dài ngày ở Hòn Gai. Bài thơ nằm trong tập thơ Trời mỗi ngày lại sáng và tiêu biểu cho thơ ca hiện đại Việt Nam.

Đọc tựa đề người đọc có thể mường tượng ra một khung cảnh lao động hăng say của những con người làm nghề chài lưới, đánh bắt. Vẻ đẹp của con người kết hợp với vẻ đẹp của thiên nhiên tạo nên một bức tranh vô cùng hoàn mĩ.

Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm với gió khơi.

Bài thơ mở đầu bằng cách tái hiện lại khoảnh khắc hoàng hôn trên biển. Cảnh tượng ấy mới thật huy hoàng và lộng lẫy làm sao. Mặt trời lúc này trở nên thật gần và cũng thật to. Mặt trời đang xuống biển, đỏ rực như một hòn lửa. Lời thơ có sự ví von thật tinh tế và thật đẹp. Sóng cũng đã “cài then”, đêm cũng chuẩn bị “sập cửa” để nghỉ ngơi sau một ngày dài. Đây là lúc mà lẽ ra mọi người phải được ngơi nghỉ thì đoàn thuyền đánh cá lại bắt đầu ra khơi. Từ “lại” giúp cho người đọc thấy được sự lặp đi lặp lại của hành động. Không phải hôm nay đoàn thuyền mới ra khơi mà ngày nào cũng vậy. Họ căng buồm lên và rồi cất cao tiếng hát đầy say mê.

Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đàn cá ơi

Giữa cảnh mênh mông sông nước cùng với đêm tôi nhưng những người đi đánh cá vẫn giữ trong mình một tinh thần vui tươi, yêu đời. Họ nhìn thấy được cái đẹp của biển cả vào ban đêm. Cái đẹp ấy đến từ những mẻ đầy tôm cá. Mỗi ngày cất vó ra khơi là chỉ mong được biển hào phóng ban tặng cho cá, cho tôm. Lời hát vừa như để thể hiện tinh thần yêu đời của mình, vừa như để cảm ơn sự giàu có của biển. Câu thơ cất lên khiến người đọc cũng cảm thấy rộn rã.

Bằng con mắt trữ tình của mình, nhà thơ Huy Cận như hóa thân vào chính những người đánh cá. Họ làm việc một cách hăng say quên đi những mệt mỏi và những hiểm nguy luôn rình rập. Trước mắt họ chỉ nhìn thấy niềm vui trong lao động:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng

Ở những câu thơ này, tác giả Huy Cận đã thể hiện được cái tài hoa của mình. Ông sử dụng phong vị thơ cổ điển qua những hình ảnh như “lái gió”, “buồm trăng”, “mây cao”, “biển bằng” nhưng vẫn đậm chất hiện thực. Công cuộc đánh cá cũng giống như một trận đánh chứ không hề đơn giản là cứ thả lưới mà xong. Những người ngư dân cũng phải thăm dò ra đậu dặm xa để tìm được đâu là bãi cá. Rồi “dàn đan thế trận” giống như người lính bài binh bố trận để vây bắt quân thù. Buông lưới làm sao để sớm mai trở về với một thuyền đầy cá. Quả thực nghĩ đến thôi cũng thấy đầy phấn khích.

Đối với người ngư dân, biển chính là linh hồn của họ. Họ gắn bó mật thiết với biển và nếu như không có biển cuộc sống sẽ trở nên tăm tối. Chính sự gắn bó ấy khiến họ thuộc biển như trong lòng bàn tay. Những cái tên của những loài cá, rồi thì thói quen của chúng họ đều biết cả:

Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long

Giữa đêm tối nơi mặt biển, ánh trăng trở nên long lanh hơn. Ánh trăng phản chiếu xuống mặt biển, chạm vào những chú cá khiến chúng cũng như đang phát sáng. Câu thơ miêu tả lũ cá cùng với ánh sáng thật diệu kì. Cá trở thành những ngọn đuốc lấp lánh giữa trời. Chúng quẫy đuôi khiến trăng trở nên vàng chóe. Ánh trăng chính là người bạn soi sáng cho ngư dân bắt được mẻ cá đầy.

Đêm dần chuyển mình, ánh mặt trời đã sắp lên, nhịp độ công việc càng trở nên gấp gáp. Những câu thơ vang lên khiến cho người đọc cảm thấy như đang được chứng kiến tận mắt cảnh kéo lưới với những tiếng hô theo nhịp rộn ràng:

Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng

Những câu thơ làm hiện lên dáng người ngư dân đang kéo lưới, họ dồn hết sức mạnh vào đôi bàn tay để kéo cho được mẻ cá lên. Câu thơ “ta kéo xoăn tay chùm cá nặng” không khiến người đọc cảm thấy nặng nề mà chỉ thấy một niềm khoan khoái bởi kéo được mẻ cá nặng là một sự thành công lớn. Rạng đông đang lóe sáng, buồm lại căng để đón nắng hồng. Đoàn thuyền đánh cá cũng chuẩn bị trở về:

Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi

Khổ thơ cuối bài, tiếng hát của sự lao động hăng say vẫn được cất lên. Dường như sau một đêm, chẳng có gì khiến cho người ngư dân cảm thấy mệt mỏi. Họ bắt đầu chạy đua cùng với mặt trời để làm sao trở về đất liền vào trước lúc mặt trời lên. Đó là cuộc chạy đua với thiên nhiên nhưng cũng là cuộc chạy đua với cuộc sống. Bài thơ khép lại với hình ảnh của một ngày mới bắt đầu. Đó là một màu sắc mới, mặc dù cũng là biển đấy, cũng là mặt trời đấy nhưng nó mang đến một sự tươi mới. Câu thơ như báo hiệu rằng người ngư dân vẫn sẽ tiếp tục ra biển vào những ngày sau và đó cũng là những cuộc đánh cá mới.

Bài thơ khép lại, lòng người đọc vẫn còn thấy rộn ràng. Bài thơ là sự ca ngợi nguồn tài nguyên của đất nước, ca ngợi sự cần cù của những con người lao động ngày ngày làm giàu cho đất nước. Bài thơ mang đến cho người đọc sự tươi vui và nhận ra được giá trị của cuộc sống này.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
1
off
10/06/2023 14:53:11
+4đ tặng

Huy Cận là một trong những nhà văn tiêu biểu của phong trào Thơ mới trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, với những tác phẩm nổi tiếng như Lửa Thiêng, Vũ trụ ca....Sau Cách mạng, ông nhanh chóng hòa nhập vào công cuộc kháng chiễn dĩ đại của dân tộc ta. Hòa bình lập lại, Huy cận với từng trang thơ ấm áp với cuộc sống tươi đẹp hơn. Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác ở Hòn Gai, năm 1958. Sau một lần tác giả đi thực tế dài ngày, tác phẩm này được đánh giá là một trong những bài hay của thơ ca Việt Nam thời hiện đại.

Với đôi mắt quan sát nhanh nhạy, giàu trí tưởng tượng, trái tim nhạy cảm với thời cuộc và tài năng nghệ thuật bẩm sinh, nhà thơ đã phác họa ra trước mắt chúng ta một khung cảnh lao động tuyệt vời trên biển. Cả bài thơ như một bức tranh sơn mài lộng lẫy với những màu sắc ảo diệu, cuốn hút người đọc. 

Mặt trời xuống biến như hòn lửa
Sóng đã cài then, đập sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Đoàn thuyền đánh cá ra khơi khi mặt trời lặn. Phía ấy mặt trời giống như một hòn lửa đỏ rực đang lặn dần vào lòng đại dương mênh mông. Màn đêm buông xuống, kết thúc một ngày. Chính là lúc ngư dân bắt tay vào công việc quen thuộc của mình: ra khơi đánh cá. Mặt biển đêm không khí lạnh lẽ mà ấm áp hẳn lên bởi tiếng hát âm vang náo nức, trong veo, thể hiện niềm vui tột cùng của người dân lao động được giải phóng: Câu hát căng buồm cùng gió khơi. Đây là cách nói độc đáo, sáng tạo của tác giả, khiến chúng ta liên tưởng đến tiếng hát hòa cùng gió mạnh, thổi căng buồm để thuyền di chuyển, đẩy thuyền phăng phăng rẽ nước ra khơi. Cánh buồm chứa đựng đầy ắp những làn gió tượng trưng cho khí thế phơi phới đi lên cuộc công cuộc xây dựng đất nước.

Lời hát ngợi ca sự giàu có và hào phóng của đại dương củng với vẻ đẹp huyền ảo của nó trong đêm. Bút pháp lãng mạn của nhà thơ đã vẽ nên một khung cảnh vừa thực vừa ảo:

Hát rằng: Cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biên muôn luồn sáng
Đến dệt lưới ta, đàn cá ơi!

Vẻ đẹp diệu kì của biển đã làm vơi đi nỗi vất vả, nhọc nhằn, đem lại niềm vui và hạnh phúc cho con người đang vật lộn với thiên nhiên, làm chủ cuộc đời.

Cảnh đánh cá trong đêm được nhà thơ Huy Cận quan sát tỉ mỉ, miêu tả rõ nét với một cảm hứng trữ tình mãnh liệt. Tác giả như hòa mình vào thiên nhiên, vào công việc và vào con người:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt mữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Những hình ảnh lái gió, buồm trăng, mây cao, biển bằng phẳng phất phong vị thơ cổ điển nhưng vẫn rất tươi mới chất hiện thực. Một chuyến ra khơi đánh cá cũng giống như bao trận đánh súng đạn. Cũng thăm dò tìm cho ra bãi cá; cũng dàn đan thế trận để giăng lưới, bủa lưới sao cho trúng luồng cá bạc, để sáng mai lúc quay lại bờ, thuyền nào thuyền nấy đầy ắp những thành quả sau một đêm lao động vất vả.

Đã bao đời, người ngư dân có mối quan hệ mật thiết với biển cả, họ với biển như gắn bó kéo sơn không thể tách rời. Họ thuộc biển như lòng bàn tay. Bao nhiêu là loài cá họ đều thuộc tên, thuộc dáng, thuộc cả thói quen của chúng:

Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cá đuôi em quẫy trăng vầng chóe.
Đêm thở: Sao lùa nước Hạ Long.

Trên mặt biển đêm, ánh sáng của trăng chiếu vào hiện lên sự long lanh dát bạc, cá quẫy đuôi, sóng sánh trăng vàng. Bài ca gọi cá vẫn tiếp tục ngân vang, lúc náo nức, lúc thiết tha. Trăng như thức cùng ngư dân, soi sáng cho ngư dân có thể làm tốt công việc, trăng cùng sóng dập dờn bên mạn thuyền, như gõ nhịp phụ họa cho tiếng hát. Thiên nhiên và con người thật hòa hợp làm sao.

Bóng đêm đang tan, ngày đang đến, nhịp độ công việc càng sôi nổi, khẩn trương:

Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.

Bao nhiêu công lao vất vả của người nông dân cuối cùng cũng được đền đáp. Dáng người ngư dân đang choãi chân, nghiêng người, dồn tất cả sức lực vào đôi cánh tay cuồn cuộn để kéo lên những mẻ cá nặng trĩu. Bóng dáng họ in trên nên trời hồng rực của bình minh. Những tia nắng vàng chiếu sớm trên khoang cá đầy làm lấp lánh thêm vảy bạc, đuôi vàng và màu sắc phong phú của những loài cá cũng khiến cho cảnh rạng đông thêm rực rỡ. Nhịp điệu câu thơ cuối chậm rãi, gợi cảm giác bình yên nhưng vui tươi, phản ánh tâm trạng thoải mái của ngư dân trước kết quả xứng đáng của một chuyến ra khơi.

Khổ thơ cuối cùng miêu tả cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá:

Câu hát căng buồm cùng với gió khơi,
Đoàn thuyên chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.

Vẫn là tiếng hát ngân vang của người ngư dân dày dặn kinh nghiệm đang vươn lên làm chủ cuộc sống của mình. Tiếng hát hòa trong gió, thổi căng cánh buồm đưa đoàn thuyền ra khơi đêm trước, nay lại cùng đoàn thuyền đầy ắp cá hân hoan trở về. Hình ảnh Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời rất tả thực mà cũng rất hào hùng. Nó phản ánh một thói quen từ lâu của ngư dân là đưa cá về bờ trước khi mặt trời mọc, đồng thời cũng thể hiện khí thế ngút trời của họ trong công cuộc xây dựng đất nước sau khi được giải phóng.

Hòa cùng niềm vui hân hoan của cả nước, nhà thơ chắp cánh cho trí tưởng tượng của mình bay bổng. Đoàn thuyền lao vun vút trên mặt biển. Mặt trời đội biển nhô màu mới một màu hổng rạng rỡ và ánh mặt trời phản chiếu trong mắt của hàng ngàn những con cá khiến nhà thơ liên tưởng tới hàng ngàn mặt trời nhỏ xíu đang đua nhau tỏa ra niềm vui. Đến đây, bức tranh biển cả ngập tràn màu sắc vui tươi của sức sống và ăp ắp chất trong tình hình dáng, đường nét của cảnh vật, của con người.

Đoàn thuyền đánh cá là một bài ca lao động hào hùng, hứng khởi. Nhà thơ ca ngợi sự mênh mông của biển cả - nguồn tài nguyên bất tận của Quốc gia, ca ngợi những con người lao động cần cù, chăm chỉ đang ngày đêm tạo ra nguồn sống cho hàng triệu người con đất Việt. Cảm hững trữ tình của Huy Cận và nghệ thuật điêu luyện của ông đã thu hút người đọc thực sự. Nửa thế kỉ đã trôi qua nhưng bài thơ vẫn giữ nguyên vẹn giá trị ban đầu của nó, vẫn là những áng văn nghệ thuật hoàn hảo ca ngợi hình ảnh người lao động. Phân nào, bài thơ giúp chúng ta hiểu được chân dung tinh thần mới của Huy Cận sau bao nhiêu thăng trầm của lịch sử đất nước và dân tộc - một Huy Cận trữ tình cách mạng.

1
0
lonely sadboiz
10/06/2023 15:02:38
+3đ tặng
1. Dàn ý Phân tích Đoàn thuyền đánh cá
I. Mở bài
  • Giới thiệu tác giả Huy Cận và tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá

 

II. Thân bài: Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá

1. Cảnh đoàn thuyền ra khơi và tâm trạng của ngư dân

  • Cảnh đoàn tuyền ra khơi khi màn đêm buông xuống.
  • Cảnh đoàn thuyền ra khơi vào buổi đêm tối những hình ảnh hết sức gần gũi và thân thương.
  • Con  gười ra khơi rất háo hức, lạc quan và niềm hy vọng mới, hy vọng về ngày mai sẽ đầy ắp cá trong khoang.

2. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển:

  • Cảnh không gian hùng vĩ, mênh mông, rộng lớn nhưng đoàn thuyền đánh cá cũng không vì thế mà kém cạnh, cũng hùng vĩ sánh vai với thiên nhiên.
  • Đánh cá giống như một trận chiến tính chất ác liệt không khác gì những trận chiến súng đạn.
  • Đoàn thuyền giữa biển cả mênh mông nhưng hào hùng và tráng lệ.
  • Niềm hăng hái và say mê của ngư dân trong việc đánh bắt cá.

3. Cảnh đoàn thuyền trở về bờ

  • Sự nhịp nhàng và đồng bộ của đoàn thuyền
  • Những tiếng hát như sự hối thúc và thể hiện niềm hân hoan chiến thắng sau nhiều đêm làm việc vất vả
  • Cảnh khoang thuyền đấy ắp những con cá.
  • Cảnh tượng thiên nhiên thật vô cùng hùng vĩ làm khung cho con người và đoàn thuyền trở thành trung tâm của bức ảnh.

 

III. Kết bài
  • Một lần nữa ca ngợi bút pháp tài tình của nhà thơ Huy Cận.
  • Nêu cảm nghĩ về Đoàn thuyền đánh cá.

Nhắc đến phong trào thơ mới trước Cách mạng tháng tám năm 1945, ta không thể nào không nhắc đến nhà thơ Huy Cận. Ông là một nhà thơ với tâm hồn tươi trẻ, dạt dào tình yêu thiên nhiên và lúc nào cũng nhìn thấy những sự sôi nổi, tươi vui từ trong những hình ảnh của đất nước, con người ở thời đại mới. Đoàn thuyền đánh cá chính là một bài thơ nói lên cái chất riêng trong thơ của ông. Bài thơ được sáng tác năm 1968, trong một chuyến đi thực tế của tác giả ở vùng biển Quảng Ninh. Đọc bài thơ, ta thấy được một bức tranh thiên nhiên tràn đầy sức sống, đây cũng là một khúc ca hùng tráng về đất nước, về con người.

Khác với cuộc sống của những người bình thường, khi họ đi làm vào ban ngày và trở về vào buổi tối thì những người ngư dân trên biển lại bắt đầu làm việc khi mọi người ai nấy đã trở về nhà:

"Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi"

Một hình ảnh thiên nhiên thật đẹp được tác giả gợi tả qua câu thơ đầu tiên của bài thơ. Đó là lúc hoàng hôn buông xuống, mặt trời đỏ rực như một quả cầu lửa đang chìm dần xuống đáy đại dương. Sóng khi ấy cũng đã cài then, để màn đêm buông xuống với cái cửa tối đóng sầm lại. Hình ảnh so sánh giàu tính nghệ thuật, gợi liên tưởng thật thú vị qua hai câu thơ đầu tiên. Chính trong hoàn cảnh vào ban đêm ấy, người ngư dân phải ra khơi, bắt đầu công việc của mình. Từ "lại" cho thấy đây không phải công việc bất chợt mà nó được lặp đi lặp lại, có tính thường nhật. Người ngư dân vốn đã quen với cái nghề "lênh đênh sóng nước" này rồi. Bắt đầu làm việc, họ cũng bắt đầu cất lên tiếng hát yêu đời, say mê: "Câu hát căng buồm cùng gió khơi". Người ngư dân cất lên những câu hát về cuộc sống trong suốt hành trình làm việc kéo dài từ đêm tới sáng của mình. Họ hát về những thứ:

"Hát rằng: Cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta, đàn cá ơi!

Trong câu hát của những người ngư dân, ta thấy được hình ảnh của các loài cá. Nào là cá bạc, cá thu.. là những sự hiện thân sáng rõ nhất của biển cả, của đại dương mênh mông. Hình ảnh so sánh "Cá thu biển Đông như đoàn thoi" cho thấy một tài nguyên biển vô cùng phong phú, giàu có ở vùng biển Quảng Ninh. Vô vàn những loài cá tươi ngon ấy, hãy đến dệt lưới cho người ngư dân ngay thôi nào! Câu hát thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời của người ngư dân trên biển. Dù vất vả, khó khăn nhưng không gì có thể khiến họ đầu hàng được.

Với câu hát yêu đời, người ngư dân có một đêm làm việc hăng say trên biển:

"Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận, lưới vây giăng"

Nhà thơ Huy Cận đã rất khéo léo khi sử dụng hình ảnh thơ đầy thi vị: "Thuyền ta lái gió với buồm trăng". Con thuyền được con người làm chủ tay lái, làm chủ tự nhiên "lái gió" và thiên nhiên "buồm trăng". Lái gió và chở cả trăng, chắc có lẽ ta không thể tìm được ở đâu một hình ảnh thơ độc đáo đến như vậy. Con thuyền tự do lướt giữa bầu trời và biển cả, cũng là một hình ảnh sáng tạo như ở câu thơ trên. Người ngư dân đang dàn thế trận, chờ đón kết quả của một buổi tối làm việc chăm chỉ.

Khổ thơ thứ tư càng làm rõ hơn tâm thế làm chủ thiên nhiên của con người:

"Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào"

Một lần nữa, câu hát của người ngư dân lại cất lên, nhưng đó không phải câu hát thúc đẩy, khích lệ nhau bắt đầu làm việc nữa mà có lẽ là câu hát yêu đời, tha thiết gọi đàn cá đến đây để kéo được một mẻ lưới tươi ngon. Lời hát cùng với tiếng sóng gõ vào mạn thuyền như bắt nhịp với nhau, vừa hát vừa có tiết tấu, gợi hình ảnh đầy lãng mãn của con người lao động. Họ làm việc tuy vất vả nhưng vẫn luôn tươi vui. Câu thơ thứ ba là hình ảnh so sánh "Biển cho ta cá như lòng mẹ". Biển được so sánh với "lòng mẹ", mà lòng mẹ thì bao la, rộng lớn biết bao, biển đem đến cho ta thức cá tươi ngon, là thành quả cũng như nguồn sống của người ngư dân. Không những thế, mẹ thiên nhiên còn nuôi dưỡng ta, từ thế hệ này đến thế hệ khác.

Sau cả một đêm làm việc vất vả, trời lúc này cũng đã sáng:

"Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng"

Trời đã sáng rồi, và thành quả của người ngư dân đang ở ngay trước mắt. Họ kéo được một mẻ cá đầy, đến mức "xoăn tay", và hiện lên trước mắt họ là những vảy cá lóe sáng lấp lánh dưới ánh nắng hồng. Có thể nói, nhà thơ đã không bỏ sót bất kì một hành động nào của người ngư dân. Những hành động rất đỗi quen thuộc hằng ngày của họ cũng có thể trở thành một hình ảnh thơ đầy tính nghệ thuật dưới con mắt của nhà thơ Huy Cận.

Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về được miêu tả thật đẹp ở khổ thơ cuối:

"Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi."

Đây là lần thứ ba câu hát được lặp lại trong bài thơ. Câu hát lúc này như trở thành một điệp khúc, nó được cất lên mỗi khi đoàn thuyền đánh cá đang muốn truyền tải một điều gì đó. Ở trong lời thơ cuối này thì có lẽ nhà thơ muốn truyền tải đến người đọc tinh thần lạc quan, yêu đời, tự tin chạy đua cùng với thiên nhiên của người ngư dân. Đoàn thuyền đang chạy đua thật nhanh với biển cả, để trở về trước khi bình minh lên cho kịp đưa những mẻ cá tới tay người bán. Hai câu thơ cuối là hình ảnh thơ đẹp nhất trong bài:

"Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi."

Mặt trời được nhân hóa đang "đội" cả biển lớn, mở ra một ngày mới tràn đầy sôi động, đầy sức sống. Câu thơ sau với hình ảnh "Mắt cá huy hoàng" cho thấy sự tươi ngon, mặn mà của hải sản - cái mà mẹ thiên nhiên đã trao tặng cho chúng ta. Có thể nói, toàn bộ bài thơ là một bức tranh lao động đầy nhiệt huyết, tươi vui của người ngư dân ở vùng biển Quảng Ninh. Bức tranh ấy mở ra trước mắt người đọc một cuộc sống mới của đất nước khi bắt đầu xây dựng lại nền kinh tế sản xuất.

Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của nhà thơ Huy Cận đã cho thấy một cảm hứng lãng mạn, một bức tranh thiên nhiên tràn đầy sức sống, mang âm hưởng hào hùng. Không chỉ vậy, nó còn làm hiện lên hình ảnh đẹp đẽ của người dân lao động và sự giàu có, phong phú của biển cả dành cho con người. Qua bài thơ, ta hiểu thêm về hồn thơ Huy Cận và tấm lòng của ông đối với quê hương, đất nước.

3
1
Tâm Như
10/06/2023 15:10:12
+2đ tặng
Nổi tiếng từ phong trào Thơ mới, Huy Cận đến với nền thơ với lời thơ thấm thía bao nỗi buồn, tràn ngập cái sầu nhân thế. Thiên nhiên trong tập thơ thường bao la, hiu quạnh, đẹp nhưng thường buồn. Nỗi buồn đó dường như vô cớ, siêu hình. Nhưng xét đến cùng, chủ yếu là buồn thương về cuộc đời, kiếp người, về quê hương đất nước. Hồn thơ "ảo não", bơ vơ đó vẫn cố tìm được sự hài hòa và mạch sống âm thầm trong tạo vật và cuộc đời.

Sau Cách mạng, thơ Huy Cận dạt dào niềm vui, là bài ca vui về cuộc đời, là bài thơ yêu thiên nhiên, con người và cuộc sống. Ông tìm được nguồn sống từ cuộc sống mới của dân tộc và say mê sáng tạo. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là một trong những tác phẩm nổi bậc của ông trong giai đoạn này.

Đoàn thuyền đánh cá được viết vào giữa năm 1958, khi cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết thúc thắng lợi, miền Bắc được giải phóng và bắt tay vào công cuộc xây dựng cuộc sống mới. Niềm vui dạt dào tin yêu trước cuộc sống mới đang hình thành. Đất nước đang thay da đổi thịt đã trở thành nguồn cảm hứng lớn của thơ ca lúc bấy giờ.

Nhiều nhà thơ đã đi tới các miền đất xa xôi của Tổ quốc để sống và để viết. Tố Hữu, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Tuân, lên miền núi, đến với nhà máy, nông trường... Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi ấy, hồn thơ của ông mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới.

Xuyên suốt bài thơ là bút pháp sáng tác lãng mạn, bay bổng, cảm xúc vũ trụ độc đáo tràn trào. Thi phẩm đã để lại cho người đọc nhiều bất ngờ thú vị, những ấn tượng sâu sắc. Mở đầu bài thơ là khung cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá lúc hoàng hôn buông xuống:

"Mặt trời xuống biển như hòn lửa.

Sóng đã cài then, đêm sập cửa.

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,

Câu hát căng buồm cùng gió khơi".

Bốn câu thơ có kết cấu gọn gàng, cân đối như một bài tứ tuyệt. Hai câu đầu tả cảnh, hai câu sau nói về con người. Buổi chiều không mang nét buồn; không gian, mặt biển bao la, hoàng tráng; thiên nhiên tràn đầy sức sống. Hình ảnh mặt trời rực rỡ từ từ xuống biển chói lòa ánh sáng. Phép nhân hóa và ẩn dụ "Sóng đã cài then đêm sập cửa" gợi cho người đọc cảm nhận thiên nhiên, vũ trụ,biển cả như đi vào trạng thái tĩnh lặng, nghỉ ngơi, thư giãn. Vũ trụ giờ đây như một ngôi nhà khổng lồ, sẵn sàng che chở cho tất cả.

Thế nhưng vũ trụ đi vào yên nghỉ nhưng không hề thấy nét lụi tàn mà ngược lại càng trở nên huy hoàng, mĩ lệ. Ánh sáng mặt trời bừng lên mãnh liệt ngỡ như có thể khiến cho cả đại dương sôi sục trong sức nóng bỏng khủng khiếp. Thủ pháp so sánh độc đáo, khiến người đọc bất ngờ, thú vị. Những con sóng lăn tăn trên mặt biển như khép lại cánh cửa của ngày. Màn đêm biển cả mở ra, sâu thẳm và huyền bí.

Trước khi vũ trụ đi vào lặng lẽ, đoàn thuyền đánh cá căng buồm ra khơi. Nhịp thơ vừa chùng xuống lập tức căng lên theo cách buồm ngược gió:

"Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,

Câu hát căng buồm cùng gió khơi".

Từ "lại" cho ta thấy đây không phải là lần đầu tiên đoàn thuyền ra khơi mà đã rất nhiều lần và trở nên quen thuộc. Một tư thế chủ động mạnh mẽ, đầy tin tưởng trong bài ca lao động tươi vui. Cảnh và người tưởng như đối lập song lại hòa hợp. Cảnh làm nền để cho hình ảnh con người nổi bật lên như tâm điểm của một bức tranh lao động khỏe khoắn. Khung cảnh vui tươi tràn ngập âm thanh và rực rỡ sắc màu, hứa hẹn một chuyến ra khơi thắng lợi.

Trong câu hát, đoàn thuyền vượt sóng ra khơi, băng mình trên biển cả tìm kiếm những luồng cá. Tiếng hát vang vọng trong đại dương, tràn đầy khí thế:

"Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,

Cá thu biển Đông như đoàn thoi

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.

Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi".

Biện pháp so sánh đầy hình ảnh kết hợp với lối chơi chữ độc đáo. "Cá thu biển Đông như đoàn thoi" khiến cho câu thơ nhộn nhịp theo từng đoàn cá chạy. Phép nhân hóa: "đêm ngày dệt biển muôn luồn sáng" lập tức phá tan vẻ đơn điệu của biển đêm. Huy Cận đã hết sức chú ý đến việc xây dựng hình ảnh đặc sắc cho đoạn thơ nhằm tạo nên sự hài hòa giữa con người và biển cả. Đại dương không còn đáng sợ nữa. Đại dương giờ đây chính là ngôi nhà vĩ đại, là nguồn sống của con người.

Lời ca tiếng hát là những ước mơ đẹp, ước mơ về một chuyến đi với những thành quả lao động cao, góp phần tích cực vào việc xây dựng cuộc sống mới tươi đẹp. Hình ảnh của sự liên tưởng sáng tạo, giàu ý nghĩa; hình ảnh mang chất thơ, thi vị hóa công việc đánh bắt cá nặng nhọc. Câu hát yêu đời, thiết tha, trìu mến, ca ngợi sự giàu đẹp của biển Đông Việt Nam, thiên nhiên Việt Nam.

Cảm hứng lãng mạn giúp nhà thơ phát hiện vẻ đẹp của cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong đêm trăng với niềm vui phơi phới, khỏe khoắn khi con người làm chủ cuộc đời, làm chủ biển trời quê hương. Cảnh đoàn thuyền lướt sóng ra khơi, từng luồng cá bủa lưới vây giăng mang vẻ đẹp vừa hoành tráng, vừa thơ mộng.

"Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng,

Ra đậu dặm xa dò bụng biển,

Dàn đan thế trận lưới vây giăng".

Con thuyền lướt trên mặt biển chừng như không phải bằng sức người. Gió đã lái con thuyền đi. Gió là thủy thủ hỗ trợ cho thuyền. Còn có cả ánh trăng trên trời cao căng trên cánh buồm. Nếu nhìn từ xa, con thuyền như đang bay trong một bầu không vĩ đại với gió, với trăng chẳng khác nào con thuyền trong huyền thoại. Con thuyền mạnh mẽ cứ thế lao đi như không hề có một trở ngại nào.

Huy Cận đã thi vị con thuyền đánh cá, nâng con thuyền lên một tầm vóc lớn lao, vĩ đại, sánh ngang vũ trụ. Cảm xúc vũ trụ đã nâng cao hồn thơ Huy Cận, khiến câu thơ cất cánh. Tầm vóc người lao động cũng được nâng lên tột bậc trong tư thế chủ động. Họ sẵn sàng làm chủ thiên nhiên, làm chủ công việc, làm chủ sự sống. Họ hiên ngang "dò bụng biển"; họ nhanh chóng "dàn đan thế trận" đưa luồng cá vào vòng vây khép kín.

Ý thơ đã nâng tâm hồn chúng ta với niềm cảm xúc lâng lâng sảng khoái. Hình ảnh thơ tạo nên sự liên tưởng đọc đáo. Đoàn thuyền đánh cá là gạch nối để liên kết giữa trời và biển, cùng hòa chung giai điệu lao động của con người. Lãng mạn nhưng không xa rời thực tế. Câu thơ miêu tả rất chân thực hoạt động đánh bắt cá của ngư dân vừa điêu luyện vừa hết sức tài tình. Cách miêu tả của Huy Cận như tập trung vào công việc lao động đánh bắt cá vì nhiều vất vả, nhọc nhằn.

Đồng thời, Huy Cận cũng đã ví những ngư dân hôm nay như những người chiến sĩ, những nhà thám hiểm đại dương vĩ đại. Họ đang chiến đấu cùng biển cả, khám phá và chinh phục thiên nhiên dữ dội. Công việc lao động trên biển như là một cuộc chiến đấu chinh phục thiên nhiên. Người lao động làm việc với tất cả lòng dũng cảm, sự hăng say, trí tuệ nghề nghiệp, tâm hồn phơi phới.

Bức tranh lao động được điểm tô bằng vẻ đẹp của thiên nhiên. Cái nhìn của nhà thơ đối với biển và cá cũng có những sáng tạo bất ngờ, độc đáo:

"Cá nhụ cá chim cùng cá đé,

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,

Cái đuôi em vẫy trăng vàng chóe,

Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long".

Biển cả phong phú tài nguyên và vô cùng giàu có. Những loài cá là linh hồn của biển cả. Cách diễn đạt mang tính cách dân gian (chim, thu, nhụ, đè). Bút phát liệt kê trùng điệp ngợi ca sự giàu có của biển cả. Bức tranh thơ không chỉ thể hiện sự giàu có của biển mà còn lung linh những màu sắc. Những chú cá song lấp lánh dưới ánh trăng, màu đen hồng kết hợp màu vàng chóe tạo cảm giác ấm áp.

Nghệ thuật nhân hóa, cách dùng đại từ "em" thể hiện tình cảm trìu mến, thân thương của tác giả. Nhà thơ tỏ thái độ trân trọng, nân niu thành quả lao động. Từ "em" mềm mại lập tức làm cho câu thơ lấp lánh sắc màu. Có giai thoại cho rằng lúc ban đầu Huy Cận viết: "Cá đuôi én vẫy trăng vàng chóe".

Rõ thực, cá đuôi én là tên một loài cá. Đến khi in thơ, nhà xuất bản cho rằng Huy Cận viết sai chính tả nên sửa thành: "Cái đuôi em vẫy trăng vàng chóe". Sự cố này không những không phá hỏng ý thơ mà còn làm cho câu thơ trở nên hình tượng và sinh động vô cùng.

Giữa mặt biển đêm bao la, mênh mông, từng con sóng nhấp nhô chạy vào bờ, tâm hồn nhà thơ như hòa nhập với cái mênh mông, vô tận của thiên nhiên. Trong những giây phút lắng đọng của tâm hồn, Huy Cận nghe được cả tiếng thở của đêm: "Đêm thở sao lùa nước Hạ Long". Bằng bút pháp lãng mạn, Huy Cận xây dựng trong thơ một sức tưởng tượng phong phú, độc đáo.

Những con sóng nhấp nhô, đều đặn như hơi thở từ trên lồng ngực khổng lồ của biển cả. Hòa trong hơi thở đó, có cả ánh trăng, cả bóng sao lung linh in hình trên mặt biển hiền hòa theo những con sóng hội tụ trên vịnh Hạ Long. Có thể nói, bằng tâm hồn hết sức tinh tế, tác giả đã cảm nhận được hơi thở của thiên nhiên, vũ trụ. Chính không khí say sưa xây dựng đất nước của những năm đầu khôi phục và phát triển kinh tế là cơ sở hiện thực của những hình ảnh lãng mạn trên.

Dấu hai chấm trong khổ thơ như sự giải thích độc đáo, làm ta có cảm giác không chỉ là gió tạo nên những con sóng nhấp nhô mà chính những vì tinh tú trên bầu trời in hình xuống mặt nước tạo nên những con sóng "sao lùa nước". Câu thơ đậm chất gợi tả, tạo sự liên tưởng, lắng đọng sâu xa trong lòng người đọc. Biển trở nên xinh đẹp, lôi cuốn... Phải có đôi mắt tinh tế, ánh nhìn sâu đậm, Huy Cận mới có thể cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, của biển trời Việt Nam.

Bút pháp lãng mạn, trí tưởng tượng phong phú của tác giả đã sáng tạo nên những hình ảnh đẹp khiến công việc lao động nặng nhọc của người đánh cá trở thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên:

"Ta hát bài ca gọi cá vào,

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.

Biển cho ta cá như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào".

Công việc đánh bắt cá nặng nhọc nhưng dưới mắt Huy Cận bỗng trở nên nhẹ nhàng, êm ái. Người dân chài không phải đang đánh cá mà là đang ca hát giữa biển trời. Lời hát mời gọi đầy sức thuyết phục đã quyến rũ những chú cá đên với những chiếc lưới đầy: "Ta hát bài ca gọi cá vào". Từ tiếng hát của ngư dân trở thành giai điệu lao động đầy lạc quan, yêu đời của những con người mới trong buổi đầu xây dựng Chủ nghĩa xã hội, thiên nhiên như đồng điệu: "Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao".

Ánh trăng in hình trên mặt nước. Ánh trăng lung linh, huyền ảo, lấp lánh, trên mặt biển rồi theo cơn sóng dập dờn vỗ vào mạn thuyền. Nghệ thuật nhân hóa "gõ thuyền" như phụ họa trong giai điệu câu hát, thiên nhiên cùng với con người gõ nhịp tình yêu cuộc sống - nhiệt tình lao động xây dựng cuộc sống. Phải có tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống dạt dào, Huy Cận mới viết nên những vần thơ đẹp như thế. Những vần thơ giàu sức biểu cảm:

"Biển cho ta cá như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào".

Biển như người mẹ hiền bao dung, quảng đại đang rộng mở cánh tay, tấm lòng để nuôi lớn đàn con thân yêu. Nghệ thuật nhân hóa kết hợp so sánh thể hiện nguồn tài nguyên vô tận của thiên nhiên Việt Nam - biển Đông Việt Nam. Huy Cận bằng những vần thơ của mình đã tạo sự liên tưởng đầy trìu mến. Biển - người mẹ vĩ đại, đã nuôi lớn những ngư dân bằng chất mặn mà của muối, của cá tôm... Biển rất ân tình.

Không mãi du hành, hát ca trên biển sóng, nhà thơ trở về với công việc người ngư dân. Cảnh kéo lưới, bắt cá được miêu tả vừa chân thực, vừa đầy chất thơ với không khí khẩn trương, gấp gáp:

"Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng.

Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.

Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng".

Ánh sáng trên bầu trời đêm đã mở dần, một ngày mới chuẩn bị ló rạng. Đây cũng là lúc những ngư dân thu hoạch kết quả của một đêm đánh bắt cá:

"Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng

Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng".

Một kết quả mỹ mãn. Những ngư dân đang hăng hái, khẩn trương "kéo xoăn tay" những mẻ lưới đầy ắp cá tôm. Những mẻ cá được nhà thơ thi vị hóa như những chùm quả ngọt đầu mùa. "Xoăn", từ dùng đắt, gợi hình, gợi cảm. Cánh tay nối cánh tay, bện lại như những sợi dây thừng chắc chắn và dẻo dai.

Động tác lao động mới thật là khỏe khoắn, bền bỉ. "Chùm cá nặng", kết quả lao động xứng đáng, tốt đẹp. Quá trình lao động cật lực, miệt mài. Phần thưởng của tình cần cù, chịu khó, dũng cảm; của năng lực trí tuệ nghề nghiệp; của lòng yêu nghề, yêu biển, của tinh thần trách nhiệm của những con người biết làm chủ bản thân, làm chủ cuộc sống, làm chủ thiên nhiên.

Ánh nắng ngày mới vừa lóe lên ở phía chân trời xa. Những tia nắng lúc đầu còn mong manh, yếu ớt một màu hồng nhạt phản chiếu lên những chú cá, tạo một hình ảnh đầy gợi cảm:

"Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng"

Dưới ánh sáng của ngày mới, những chiếc vẩy bạc kết hợp với đuôi vàng tạo thành một màu vàng trắng lấp lánh. Toàn khổ thơ sáng rực rỡ. Ánh sáng ấy do cá, bởi cá. Biển đêm mà không tối, bao trùm lên cả bức tranh về biển là màu sắc của cá phong phú, lóng lánh... Hình ảnh thơ đầy sức sống và niềm tin - phấn khởi để chào đón một ngày mới.

Có thể nói, cảnh lao động đánh cá trên biển như bức tranh sơn mài rực rỡ. Người kéo lưới là trung tâm của cảnh được khắc họa rất độc đáo với thân hình gân guốc, chắc khỏe cùng thành quả thu về "vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông". Màu hồng của bình minh làm ấm sáng bức tranh lao động. Thiên nhiên và con người cùng nhịp nhàng trong sự vận hành của vũ trụ.

Sau những mẻ lưới nặng trĩu cá tôm, đoàn thuyền đánh cá thắng lợi trở về trong bình minh rực rỡ, tráng lệ. Câu đầu của khổ thơ lặp lại gần như nguyên vẹn câu cuối của khổ thứ nhất. Cấu trúc đầu - cuối tương ứng ấy trở thành điệp khúc ngân nga, nhấn mạnh niềm vui lao động làm giàu đẹp quê hương và khắc họa đậm nét vẻ đẹp khỏe khoắn cùng niềm vui phấn khởi của người ngư dân:

"Câu hát căng buồm với gió khơi,

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.

Mặt trời đội biển nhô màu mới,

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi".

Đoàn thuyền bắt đầu trở về, phía sau là ánh mặt trời bắt đầu nhô lên từ lòng đại dương xanh thẳm. Từ "chạy đua" làm nên âm điệu thơ khẩn trương, nhanh chắc. Một cuộc chạy đua giữa con người và thiên nhiên, cuộc chạy đua để giành lấy, tranh thủ sự dựng xây, cống hiến cho cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Đoàn thuyền vừa đến bến cũng là lúc mặt trời rời khỏi lòng đại dương, mở ra một ngày mới tươi đẹp:

"Mặt trời đội biển nhô màu mới

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi".

Cảnh mặt trời đội biển rất lạ. Người đọc có cảm giác như mặt biển được nâng cao theo từng con sóng triều dâng tỏa rạng, xóa tan màn đêm. Một đêm lao động đã kết thúc, ngư dân xếp lưới và hạnh phúc với thành quả lao động vừa thu được.

Huy Cận đã cường điệu hình ảnh những chú cá: "Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi".

Dưới ánh nắng mặt trời, những đôi mắt cá lấp lánh như hàng nghìn ánh mặt trời bé con. Thiên nhiên rực rỡ một mặt trời to lớn, xán lạn; con người có trong tay muôn nghìn mặt trời nhỏ lấp lánh, huy hoàng... Bút pháp lãng mạn đầy chất thơ, ca ngợi và thể hiện tình yêu lao động, tình yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu cuộc sống mới. Một ngày mới tươi vui, một cuộc đời mới đang sinh sôi, nảy nở.

Thành công của bài thơ còn ở việc Huy Cận xây dựng hình ảnh bằng liên tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo; có âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng, lạc quan của người lao động. Thông qua việc miêu tả cảnh lao động đánh cá của người ngư dân vùng biển Hạ Long, bài thơ Đoàn thuyền đánh các ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của biển khơi; ngợi ca khí thế lao động hăng say, yêu đời của người lao động mới đã được giải phóng, đang làm chủ bản thân, làm chủ cuộc đời và đất nước:

"Tập làm chủ, tập làm người xây dựng

Dám vươn mình cai quản lại thiên nhiên!"

(Tố Hữu)
1
0
Kim Anh
10/06/2023 15:42:20
+1đ tặng

Huy Cận (1919 - 2005), là nhà thơ nổi tiếng từ phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng (1940). Trước Cách mạng tháng Tám,thơ ông giàu chất triết lí, thấm thía bao nỗi buồn, tràn ngập cái sầu nhân thế. Sau Cách mạng, ông tiếp tục có nhiều cống hiến quan trọng trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. Thơ Huy Cận giai đoạn này dạt dào niềm vui, là bài ca vui về cuộc đời, là bài thơ yêu thiên nhiên, con người và cuộc sống. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một trong những tác phẩm thể hiện rõ ràng nhất phong cách thơ ấy.

Cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết thúc thắng lợi, miền Bắc được giải phóng và bắt tay vào công cuộc xây dựng cuộc sống mới. Niềm vui dạt dào tin yêu trước cuộc sống mới đang hình thành, đang thay da đổi thịt đã trở thành nguồn cảm hứng lớn của thơ ca lúc bấy giờ, nhiều nhà thơ đã đi tới các miền đất xa xôi của Tổ quốc để sống và để viết: miền núi, hải đảo, nhà máy, nông trường… Năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi ấy, hồn thơ của ông mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới.

Bài thơ có hai nguồn cảm hứng lớn, song hành, hài hòa và trộn lẫn vào nhau. Đó là cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ và cảm hứng về con người lao động trong cuộc sống mới. Sự thống nhất của hai nguồn cảm hứng ấy được thể hiện qua kết cấu và hệ thống thi ảnh trong bài. Về kết cấu, thời gian của bài thơ là nhịp tuần hoàn của vũ trụ ( từ lúc hoàng hôn đến lúc bình minh) cũng là thời gian hoạt động của đoàn thuyền đánh cá ( từ lúc ra khơi đến khi trở về). Không gian của bài thơ là một không gian lớn lao, kỳ vĩ với trời,biển, trăng, sao, sóng, gió; cũng là không gian của cảnh lao động.

Mở đầu bài thơ là cảnh đoàn thuyền ra khơi lúc hoàng hôn:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then,đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”

Bốn câu thơ có kết cấu gọn gàng, cân đối như một bài tứ tuyệt: hai câu đầu tả cảnh, hai câu sau nói về con người. Cảnh và người tưởng như đối lập song lại hòa hợp, cảnh làm nền để cho hình ảnh con người nổi bật lên như tâm điểm của một bức tranh – bức tranh lao động khỏe khoắn, vui tươi tràn ngập âm thanh và rực rỡ sắc màu.

Hai câu thơ đầu tả cảnh hoàng hôn trên biển, cũng là thời điểm đoàn thuyền đánh cá ra khơi:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa”.

Nếu chỉ căn cứ vào thực tế sẽ thấy câu thơ có vẻ vô lí, bởi trên vịnh Hạ Long- ở hướng Đông, không thể thấy cảnh mặt trời xuống biển như thế, mà chỉ có thấy mặt trời mọc được thôi. Vậy thì ở đây, khi viết “Mặt trời xuống biển” tức là nhà thơ đã lấy điểm nhìn từ trên con thuyền đang ra khơi,giữa biển khơi nhìn về hướng Tây nơi bờ bãi. Lúc đó, xung quanh con thuyền chỉ là mênh mông sóng nước, mặt trời chỉ còn cách lặn xuống biển. Mặt trời xuống biển nhưng dường như không tàn lụi, không tắt. Nó như hòn lửa – một quả cầu lửa – đỏ rực, khổng lồ chìm vào đáy nước đại dương. Biển cả bao la như nồng ấm hẳn lên. Phép tu từ so sánh: mặt trời được ví với hòn lửa đem đến cho bức bức tranh hoàng hôn một vẻ đẹp rực rỡ, tráng lệ, và ấm áp chứ không hiu hắt, ảm đạm như trong thơ cổ.

Phép nhân hóa, ẩn dụ “Sóng đã cài then đêm sập cửa” giúp người đọc cảm nhận thiên nhiên, vũ trụ,biển cả như đi vào trạng thái tĩnh lặng, nghỉ ngơi, thư giãn. Vũ trụ giờ đây như một ngôi nhà khổng lồ. Những lượn sóng dài như chiếc then cài, còn màn đêm đang buông xuống là cánh cửa. Hình ảnh thơ cho thấy thiên nhiên vũ trụ bao la mà gần gũi với con người – biển cả hay đó cũng chính là ngôi nhà thân thuộc của mỗi ngư dân. Có thể nói, hai câu thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên và lòng yêu mến cuộc đời của nhà thơ Huy Cận.

Thiên nhiên vũ trụ là cái phông, cái nền cho con người xuất hiện:

“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”

Hình ảnh, nhạc điệu trong câu thơ diễn tả khí thế khỏe khoắn, phấn chấn của những người lao động: khẩn trương làm việc bất kể ngày đêm. Đoàn thuyền lại ra khơi, tuần tự, nhịp nhàng như cái nhịp sống không bao giờ ngừng nghỉ. Chữ “lại” trong câu thơ đã diễn tả điều đó, cho ta hiểu đây là công việc, là hoạt động hàng ngày, thường xuyên, trở thành một nếp sống quen thuộc của những người ngư dân vùng biển.

“Câu hát căng buồm cùng gió khơi” là hình ảnh ẩn dụ mang tính chất khoa trương. Tiếng hát khỏe khoắn tiếp sức cho gió làm căng cánh buồm. Tiếng hát ấy, làm nổi bật khí thế hồ hởi của người lao động trong buổi xuất quân chinh phục biển cả… Tiếng hát ấy còn thể hiện niềm mong ước của người đánh cá: mong ước một chuyến ra khơi đánh bắt được thật nhiều hải sản, nhiều cá tôm giữa sự giàu đẹp của biển khơi:

“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng,
Đến dệt lưới ta,đoàn cá ơi!”

Cảm hứng lãng mạn giúp nhà thơ phát hiện vẻ đẹp của cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong đêm trăng với niềm vui phơi phới, khỏe khoắn khi con người làm chủ cuộc đời, làm chủ biển trời quê hương. Cảnh đoàn thuyền lướt sóng ra khơi, từng luồng cá bủa lưới vây giăng mang vẻ đẹp vừa hoành tráng, vừa thơ mộng:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng”
“Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”.

Con thuyền vốn nhỏ bé trước biển trời bao la đã trở thành con thuyền kì vĩ mang tầm vóc vũ trụ. Thuyền có gió làm bánh lái, có trăng làm cánh buồm, lướt giữa mây cao với biển bằng, giữa mây trời và sóng nước. Hình ảnh người lao động cũng trở nên lồng lộng giữa biển trời trong tư thế làm chủ. Hình ảnh con người đã hòa nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên vũ trụ. Không chỉ vậy, họ còn nổi bật ở vị trí trung tâm – ra tận khơi xa dò bụng biển, tìm luồng cá, dàn đan thế trận,bủa lưới vây giăng.

Đoàn thuyền đánh cá băng băng lướt sóng, bủa vây điệp trùng. Công việc lao động trên biển như là một cuộc chiến đấu chinh phục thiên nhiên. Người lao động làm việc với tất cả lòng dũng cảm, sự hăng say, trí tuệ nghề nghiệp, tâm hồn phơi phới.

Bức tranh lao động được điểm tô bằng vẻ đẹp của thiên nhiên. Cái nhìn của nhà thơ đối với biển và cá cũng có những sáng tạo bất ngờ,độc đáo:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”

Thủ pháp liệt kê kết hợp với sự phối sắc tài tình qua việc sử dụng các tính từ chỉ màu sắc “đen hồng”,”vàng chóe”… đã tạo nên một bức tranh sơn mài nhiều màu sắc, ánh sáng, lung linh huyền ảo như trong câu chuyện cổ tích nói về xứ sở thần tiên. Mỗi loài cá là một kiểu dáng, một màu sắc: “Cá nhụ cá chim cùng cá đé/Cá song lấp lánh đuốc đen hồng” làm nên sự giàu đẹp của biển cả quê hương. Như có một hội rước đuốc trong lòng biển đêm sâu thẳm. Mỗi khi: “Cái đuôi em quẫy”, trăng như vàng hơn, rực rỡ hơn, biển cả như sống động hẳn lên. Người xưa thường nói: “Thi trung hữu họa” – nghĩa là trong thơ có hình có ảnh. Quả đúng như thế, mỗi loài cá ở đây là bức kí họa thần tình. Chúng đâu chỉ là sản phẩm vô tri được đánh bắt bởi bàn tay con người. Với họ – những người ngư dân này – cá là bạn, là “em”, là niềm cảm hứng cho con người trong lao động, và cũng chính là đối tượng thẩm mĩ cho thi ca.

Cảnh đẹp không chỉ ở màu sắc, ánh sáng, mà còn ở âm thanh.Nhìn bầy cá bơi lội, nhà thơ lắng nghe tiếng sóng vỗ rì rầm: “Đêm thở :sao lùa nước Hạ long”. Bằng nghệ thuật ẩn dụ kết hợp nhân hóa, biển cả như một sinh thể sống động. Tiếng sóng vỗ dạt dào dâng cao hạ thấp là nhịp thở trong đêm của biển. Thế nhưng nhà thơ lại viết “Đêm thở:sao lùa nước Hạ Long”. Thật ra, là sóng biển đu đưa rì rào va đập vào mạn thuyền. Trăng, sao phản chiếu ánh sáng xuống nước biển, mỗi khi sóng vỗ nhịp tưởng như có bàn tay của sao trời đang “lùa nước Hạ Long”. Đó là sự độc đáo, mới lạ trong sáng tạo nghệ thuật. Có thể nói, bằng tâm hồn hết sức tinh tế, tác giả đã cảm nhận được hơi thở của thiên nhiên, vũ trụ. Chính không khí say sưa xây dựng đất nước của những năm đầu khôi phục và phát triển kinh tế là cơ sở hiện thực của những hình ảnh lãng mạn trên.

Bút pháp lãng mạn, trí tưởng tượng phong phú của tác giả đã sáng tạo nên những hình ảnh đẹp khiến công việc lao động nặng nhọc của người đánh cá trở thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên:

“Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng ca
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”.

“Gõ thuyền” là công việc thực của người đánh cá, nhưng cái độc đáo ở đây là vầng trăng được nhân hóa, tham gia lao động cùng con người. Người dân chài hát bài ca gọi cá, bài ca về lòng biết ơn mẹ biển giàu có, nhân hậu.

Sao mờ, đêm tàn cũng là lúc người dân chài kéo lưới kịp trời sáng. Cảnh kéo lưới, bắt cá được miêu tả vừa chân thực, vừa đầy chất thơ với không khí khẩn trương, gấp gáp:

“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”.

Có thể nói, cảnh lao động đánh cá trên biển như bức tranh sơn mài rực rỡ. Người kéo lưới là trung tâm của cảnh được khắc họa rất độc đáo với thân hình gân guốc, chắc khỏe cùng thành quả thu về “vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông”. Màu hồng của bình minh làm ấm sáng bức tranh lao động. Thiên nhiên và con người cùng nhịp nhàng trong sự vận hành của vũ trụ.

Kết thúc một đêm hăng say trên biển, đoàn thuyền đánh cá trở về trong bình minh rực rỡ, tráng lệ:

“Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”.

Câu đầu của khổ thơ lặp lại gần như nguyên vẹn câu cuối của khổ thứ nhất, chỉ thay có một từ ( từ “với”) đem đến kết cấu đầu – cuối tương ứng, tạo sự hài hòa cân đối. Cấu trúc lặp lại ấy trở thành điệp khúc ngân nga, nhấn mạnh niềm vui lao động làm giàu đẹp quê hương và khắc họa đậm nét vẻ đẹp khỏe khoắn cùng niềm vui phấn khởi của người ngư dân.

Phép tu từ nhân hóa: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”cho thấy tư thế chủ động chinh phục biển trời, vũ trụ của người ngư dân. Đúng như lời bình của chính tác giả: “Bài thơ là cuộc chạy đua giữa con người với thiên nhiên và con người đã chiến thắng”.

Nếu khổ thơ đầu, mặt trời xuống biển báo hiệu hoàng hôn thì ở khổ cuối lại là mặt trời đội biển – là ngày mới bắt đầu – ngày mới với thành quả lao động bội thu và niềm tin yêu phấn chấn.

Câu thơ kết bài vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa khiến người đọc liên tưởng tới một tương lai tươi sáng, huy hoàng: “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”. Ngày mới bắt đầu – thành quả lao động trải dài muôn dặm phơi – một cuộc đời mới đang sinh sôi, phát triển…

Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” đã khắc họa nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống. Bài thơ có nhiều sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh bằng liên tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo; có âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng,lạc quan.

Thông qua việc miêu tả cảnh lao động đánh cá của người ngư dân vùng biển Hạ Long, bài thơ ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của biển khơi; ngợi ca khí thế lao động hăng say, yêu đời của người lao động mới đã được giải phóng, đang làm chủ bản thân, làm chủ cuộc đời và đất nước:

“Tập làm chủ, tập làm người xây dựng
Dám vươn mình cai quản lại thiên nhiên!

Yêu biết mấy, những con người đi tới
Hai cánh tay như hai cánh bay lên
Ngực dám đón những phong ba dữ dội
Chân đạp bùn không sợ các loài sên!”

(“Mùa thu mới” – Tố Hữu).

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 9 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo