LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích vợ chồng A phủ

Phân tích vợ chồng A phủ 
3 trả lời
Hỏi chi tiết
79
Hồng Anh
Ô meii gót??Chặn mãi thế nhỉ.Ai mới là đứa vô não đây.Chứ m cũng nhận dis rồi còn muốn cãi ngu à?Hay muốn gì nè...Chính mồm nhận dis bây giờ còn muốn thanh minh hỏ cậu <33Hahaha,suy nghĩ mấy đứa như cậu thú vị nhỉ <333
14/06/2023 16:02:04
Khánh
Hài hước vậy bạn ?
14/06/2023 16:02:48
Hồng Anh
Khánh Ôi,thanks cậu.Tớ có tánh hài hước từ nhỏ rồi cậu ạ <333
14/06/2023 16:04:48
Tham khảo câu trả lời từ Trợ lý ảo Lazi
As an AI language model, I cannot provide any analysis on a specific couple without any context or information. Please provide more details or clarify your question.
3
3
Hoàng Hiệp
14/06/2023 15:57:23
+5đ tặng

Vợ chồng A Phủ được in trong tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài. Tác phẩm Vợ chồng A Phủ là kết quả của tác giả khi được cử đi viết về các căn cứ cách mạng và đời sống ở vùng mới giải phóng. Khi đi sâu vào đời sống của người dân vùng núi, Tô Hoài đã cảm nhận được một tinh thần bất khuất và kiên cường kì lạ của đồng bào nơi đây. Và Vợ chồng A Phủ cũng là một bức tranh đen tối về số phận của những người phụ nữ dân tộc thiểu số. Đặc biệt, qua đoạn trích  "Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết [..] bao giờ chết thì thôi. " tác giả đã tố cáo sự độc ác, tàn bạo của giai cấp thống trị.

Đoạn trích trên nằm ở phần đầu tác phẩm, miêu tả chân thực số phận bất hạnh của Mị dưới cái bóng của chế độ thực dân phong kiến chúa đất. Từ đó, ta thấy được cách nhìn về cuộc sống và con người của nhà văn Tô Hoài.

Tô Hoài đã từng quan niệm rằng:" Nhân vật là linh hồn và là trụ cột của tác phẩm ". Đặc biệt trong văn xuôi với thể loại truyện ngắn, một tác phẩm có thành công hay không phụ thuộc hoàn toàn vào nhân vật tham gia bởi nhân vật là trung tâm của câu truyện, có nhân vật mới có thể xây dựng được cốt truyện, diễn biến truyện, việc xây dựng nhân vật chính là dụng ý của nhà văn để thể hiện rõ được nội dung và tình cảm.

Trong tác phẩm" Vợ Chồng A Phủ "Mị là nhân vật chính của câu chuyện. Trước khi về làm dâu nhà thống lí, Mị vốn là một cô gái vùng cao trẻ trung, xinh đẹp, hồn nhiên, có tài" thổi lá cũng hay như thổi sáo, có biết bao nhiêu người mê ", nhưng vì món nợ truyền kiếp, Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Cuộc sống làm dâu của Mị không hề dễ dàng: Bị bóc lột sức lao động, làm việc quần quật suốt ngày đêm; bị chà đạp về quyền sống" không bằng con trâu con ngựa "; và bị hủy diệt về tinh thần" mỗi ngày, Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa ". Bao nhiêu khổ đau ở nhà thống lí đã biến Mị từ một cô gái hồn nhiên, yêu đời, trở thành một người đàn bà bị tước mất linh hồn. Trong đoạn văn trên, Tô Hoài đã tái hiện lại phần nào cuộc sống khổ cực ấy của Mị.

Trước hết, Mị hiện lên trong đoạn trích là một người vô cảm, cạn kiệt sức sống, đến cả cái chết Mị còn chẳng màng nghĩ tới nữa, bởi cuộc sống của Mị bây giờ chẳng khác gì kiếp nô lệ, súc vật:

Ngay từ câu văn đầu tiên, nhà văn đã để lại ấn tượng về khoảng thời gian mà Mị đã sống trong nhà thống lí:" Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau ", chỉ mấy năm thôi nhưng chắc là lâu lắm. Nếu đó là những năm tháng hạnh phúc thì đâu có gì để nói, nhưng đây lại là những năm tháng Mị phải kéo lê cuộc sống của mình trong đau khổ, trong sự xói mòn, mất mát dần của cảm xúc tâm hồn. Điều đáng ngạc nhiên là đến chính Mị cũng chẳng còn nhớ cuộc sống trong trốn địa ngục trần gian ấy đã diễn ra trong bao nhiêu năm nữa" Mị cũng không nhớ nữa "– phải chăng, cô đã mất hết nhận thức về thời gian, không gian? Cái khoảng thời gian không xác định ấy tưởng chỉ mang tính chất giới thiệu thôi mà gợi lên biết bao thương xót, ngậm ngùi.

Trong sự chảy trôi ấy của thời gian hiện lên cái chết của con người" bố Mị chết ": Sự chảy trôi dai dẳng ấy của thời gian như kéo dài cái khổ, cái cực của những người lao động nghèo miền núi. Họ phải cam chịu và sống dưới cái trướngcủa bọn chúa đất miền núi ngày này qua tháng khác. Cuối cùng, cái khổ ấy kếtthúc thành cái chết. Chỉ với một câu văn ngắn, Tô Hoài đã dấy lên niềm đồng cảm của ngườiđọc về cuộc đời bất hạnh của những người lao động nghèo miền núi. Quả thực, nói như Nguyễn Minh Châu:" Nhà văn không tô đen hay bôi hồng cuộc sốngmà nhà văn chỉ làm rõ bộ mặt thật của nó ".

Ở những câu văn tiếp theo, một lần nữa hình ảnh nắm lá ngón xuất hiện" Nhưng Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tự nữa ". Lần thứ nhất, khi Mị trốn về nhà và khóc nức nở với bố," Mị ném nắm lá ngón xuống đất.. Mị không đành lòng chết ". Mị làm vậy bởi lúc ấy, Mị còn có sự ràng buộc là phải sống để trả nợ cho bố. Bây giờ," Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tự nữa ". Phải chăng, Mị đã cam tâm sống kiếp nô lệ? Phải chăng, ý thức phản kháng trong Mị đã bị tê liệt? Thật chua xót làm sao, hóa ra, cái môi trường độc địa kia đã ngấm vào trong Mị, đau khổ đã đồng hóa Mị, khiến Mị quen dần với nó, chấp nhận nó như một phần trong cuộc sống của mình" Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi ". Người đời thì quen ăn mặc sung sướng, Mị thì" quen khổ ", chua xót làm sao? Và càng chua xót hơn, khi cái sự" quen "trong vô thức ấy, nó đã làm thui chột luôn cả ý thức đấu tranh trong Mị. Ngay cả đến sự phản kháng yếu ớt cũng không còn. Còn đâu một cô Mị của lòng ham sống yêu đời? Nào đâu còn cô Mị sẵn sàng ăn lá ngón để tự tử, để chấm dứt kiếp đời nhục nhã?

Câu văn đánh dấu sự thay đổi trong tính cách và tâm trạng của Mị. Như vậy, do tác động của sự bóc lột mà bố con Pá Tra gây ra mà giờ Mị đã mất đingọn lửa sống và chẳng còn màng nghĩ tới sống chết nữa. Ba chữ" Mị quen khổ rồi "như chất chứa bao xót xa và phẩn uất. Hoàn cảnh tạo nên tính cách và tính cách tạo nên số phận. Từ mộtngười con gái tự do và yêu đời, cánh tay đen ngòm của cái khổ và cái ác đã tómlấy Mị và hút hết bao nhiêu là cái tốt, cái đẹp rồi nhả ra là một con người nhỏ bé, trơ lì và chai sạn. Đọc những câu văn này, ta càng cảm thấy thương và đồng cảm với số phận bất hạnh của Mị.

Nếu như Thúy Kiều bị Sở Khanh và Tú Bà lập mưu vào tròng để bắt nàng phải tiếp khác nàng chơi, Kiều đã đau đớn trong cảnh nhục nhã khi thân xác bị chà đạp, trở thành vật mua vui cho người khác:

Mặt sao dày gió dạn sương

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân?

Nhưng trong nỗi đau đoạn trường đó, Kiều vẫn là Kiều, vẫn ý thức được nỗi đau của bản thân, khao khát tiếng nói tri kỷ" Vui là vui gượng kẻo là/Ai tri âm đó mặn mà với ai? "Thì ở đây cô Mị lại hoàn toàn câm lặng. Nỗi đau và khổ đã chất chồng không còn đủ sức tê đi tái lại, nó đã chai dại và làm băng giá cả hồn người để người ta buông xuôi chấp nhận. Mị quen khổ rồi. Ôi sao đớn đau đến vậy?

Không những vậy, ở nhà thống lí Pá Tra, Mị còn bị bóc lột, vắt kiệt sức lao động, không khác gì súc vật. Đó cũng là lí do tại sao Mị lại" quen khổ rồi ":

Mị đã tự đẩy cuộc sống của mình ngang hàng với súc vật" Bây giờ thì Mị tưởngmình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi ". Nhà văn như nhập thân vào nhân vật để nói lên suy nghĩ của Mị. Và suy nghĩ đã ăn sâu trong Mị mấy năm nay, chính là Mị nghĩ mình cũng như một con vật nuôi trong nhà thống lí. Con vật phải chịu kiếp đọa đày dưới đòn roi của chủ, phải làm việc khổ sai và không thể phản kháng, kêu ca. Mị cũng thế. Phải khổ, phải cam chịu đến thế nào, Mị mới nghĩ mình chỉ như loài vật như thế? Câu văn chất chứa biết bao nỗi xót xa, thương cảm mà Tô Hoài dành cho nhân vật của mình.

Gương mặt chính là sự phản chiếu của suy nghĩ, của tâm hồn. Suy nghĩ cam chịu, tâm hồn cô cảm đã khiến cho vẻ mặt của Mị mới buồn bã làm sao:" Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa. "Trên khuôn mặt lúc nào cũng chỉ biết cúi xuống ấy, làm sao thấy được một nét vui tươi? Trên khuôn mặt không bộc lộ một chút cảm xúc, nghĩ suy ấy, làm sao nhận ra một tia hạnh phúc? Chỉ có những người không thể vui, không thể hạnh phúc, mới có vẻ mặt đó. Đó là khuôn mặt nói lên sự lạnh lẽo, vô cảm của đời sống tâm hồn. Khuôn mặt héo hắt của một tâm hồn lay lắt.

Khi sống không còn cảm xúc, con người ta khác ci một cỗ máy lặp đi lặp lại theo quy trình? Hoàn cảnh sống khắc nghiệt thực sự đã biến Mị thành cỗ máy. Nên không phải ngẫu nhiên mà nhà văn lại miêu tả Mị với những suy nghĩ và hành động lặp đi lặp lại:" Lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. "Vậy là mị chỉ nhớ về công việc, những công việc giống nhau, chẳng có gì mới mẻ, chẳng có gì đáng để suy nghĩ, bận tâm thêm. Mị chẳng muốn nghĩ thêm hay chẳng thể nghĩ thêm? Dù thế nào thì những suy nghĩ lặp lại ấy đã nói lên sự vô cảm của đời sống tâm hồn. Người ta có thể nghèo về vật chất, nhưng nghèo đến cả suy nghĩ, cảm xúc nữa thì khốn khổ biết bao!

Tuy nhiên, ẩn đằng sau những câu văn này không chỉ đơn thuần là miêu tả trạng thái hiện tại của Mị. Sự xuất hiện của Mị là tiếng búa đinh óc, là lời tố cáo đanh thép của Tô Hoài về tội ác của bọn chúa đất khiến con người ta lâm vào" cùng đường tuyệt lộ ". Kim Lân từng quan niệm" Nhà văn phải viết như chơi, viết bằng cả tấm lòng của mình, nhưng phải hướng vào cái đẹp và cái thật. Khi nhà văn phát hiện ra cái gì không thật và không đẹp phải biết bất bình và lên tiếng ". Quả thật là vậy, có lẽ khi viết nhữngdòng văn này, Tô Hoài cũng không khỏi xót xa và căm phẫn thay cho nhân vật của mình. Từ ấy, nhà văn như muốn người đọc cùng buồn, cùng thương cho Mị. Suy cho cùng," con người đến với cuộc sống từ nhiều nẻo đường, trên muôn vàn cung bậc phong phú. Nhưng tiêu điểm mà con người hướng đến vẫn là con người "(Đặng Thai Mai).

Văn học dân gian miền núi cũng từng có tác phẩm kể lại những đau khổ, vất vả, tủi nhục, uất hận của phận làm dâu trong xã hội cũ:

" Như con trâu nặng nề đeo ách,

Như thân trâu măng buộc cọc tre,

Kéo cày từ sớm đến khuya,

Phận làm dâu chẳng có mùa nghỉ ngơi. "

(" Tiếng hát làm dâu "– Dân tộc Hmông)

Đoạn thơ như nói hộ tiếng lòng của Mị đang phải chịu những bi kịch ngậm ngùi không thể thốt thành lời.

Chưa hết, bị bóc lột sức lao động thôi chưa đủ, Mị còn bị chà đạp về quyền sống khi Mị sống" không bằng con trâu con ngựa ":

Thân phận của Mị chẳng khác nào thân phận" trâu ngựa ". Con trâu con ngựa suốt tháng suốt năm phải làm việc lam lũ trên nương, khoảnh khắc nghỉ chân của nó thật ngắn ngủi. Mị cũng thế, từ ngày về nhà thống lí Pá Tra làm dâu, quanh năm Mị quanh quẩn trên nương" bẻ bắp "," hái củi "," bung ngô ", lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Con ngựa đôi khi còn được" đứng gãi chân, nhai cỏ ", còn Mị phải vùi vào làm việc" cả đêm, cả ngày ".

Vậy có khác nào con ngựa, con trâu? Thậm chí còn không bằng con ngựa, con trâu. Mị hiện lên như một công cụ lao động sống lặng lẽ, cam chịu bị bóc lột, đọa đày về thân xác.

Còn nữa, không chỉ bị vắt kiệt sức lao động, quyền sống là con người cũng không có, Mị còn bị hủy diệt về tinh thần:

Bao nhiêu khổ đau ở nhà thống lí đã biến Mị - một cô gái xinh đẹp, yêu đời mấy năm về trước bỗng trở thành một người đàn bà lầm lũi, vô cảm. Lúc nào Mị cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi." Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa ". Mị suốt đời câm lặng, chịu đựng bị đè nén, bị áp bức như con rùa. Đằng sau sự so sánh này là niềm thương cảm thấm thía của nhà văn về một kiếp người hóa thành kiếp vật.

Trong vô vàn lời ca than thân xưa nay khiến người đọc day dứt khôn nguôi về thân phận con người:

Thương thay thân phận con rùa

Xuống sông đội đá, lên chùa đội bia

Hay:

Thương thay lũ kiến tí ti

Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi

Còn lời than thân nào đau đớn và chua chát lớn hơn một cuộc đời đắng ngắt, mặn chát như cuộc đời Mị hay không?

Ở nhà Pá Tra, Mị thực sự là một tù nhân. Căn buồng âm u tăm tối với cái ô cửa số bé bằng bàn tay lúc nào" trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng ". Thực sự là hình ảnh của một nhà ngục. Nó đã giam hãm tâm hồn và tuổi xuân của Mị. Nó đã làm tê liệt con người ý thức trong Mị, chỉ còn nơi Mị cái suy nghĩ tội nghiệp, đáng thương.

Ta liên tưởng đến nàng Kiều khi xưa cũng bị giam hãm số phận tại lầu Ngưng Bích:

" Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia. "

Chỉ có điều, nếu Thúy Kiều còn được cảm nhận cái" bốn bề bát ngát xa trông "thoáng đãng của không gian thì Mị lại bị giam hãm trong căn phòng chật hẹp và tù túng. Ở trong ấy, Mị chẳng khác nào một tù nhân phải chịu án tù chungthân. Nhà thống lí Pá Tra đúng là không có chỗ cho lương tri và tình người.

Ở trong ngục tù ấy," Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi ". Ở bên ngoài căn phòng ấy là không gian mênh mông của núi rừng Tây Bắc, là sự tự do; còn bên trong là sự tù túng, chật hẹp và giam hãm. Mị" trông ra đến bao giờ chết thì thôi "dường như là Mị đang hướng về sự sống, về phía có ánh sáng le lói, yếu ớt với mong muốn vượt ngục hay chăng? Câu văn như vẽ ra ranh giới giữa sự sống và cái chết mà con người ta muốn giảithoát lại không thể thoát giải, đành phải bất lực và vô vọng. Sự trông ra và ngóng vọng của Mị như để lại một khoảng lặng trong tâm trí người đọc. Liệu rằng số phận của Mị sẽ mãi như vậy, hay một lúc nào đó Mị sẽ trỗi dậy tháo cũi sổ lồngđể giải thoát cho bản thân mình? Đoạn trích khép lại mà mở ra bao nhiêu suyngẫm và trăn trở trong lòng người đọc. Nói" Văn học là nhân học "như M. Gorki, quả không sai.

Bằng việc sử dụng nghệ thuật trần thuật lôi cuốn, hấp dẫn kết hợp việc vận dụng nhuần nhuyễn các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, cùng những chi tiết vô cùng đặc sắc.. Tô Hoài đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Mị với nỗi thống khổ trong kiếp nô lệ nhà thống Pá Tra: Bị bóc lột sức lao động, bị chà đạp về quyền sống, bị hủy diệt về tinh thần.

Qua đoạn trích, ta cũng thấy được cách nhìn về cuộc sống và con người của nhà văn. Trước hết, về cách nhìn về cuộc sống: Là cái nhìn hiện thực khi nhà văn muốn thể hiện một cách chân thực bức tranh xã hội thực dân, phong kiến miền núi với những mâu thuẫn giữa tầng lớp địa chủ phong kiến thực dân với quần chúng lao động. Đúng như quan niệm của nhà văn" Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật ". Tiếp đến, về cách nhìn về con người: Là cái nhìn nhân đạo. Trong đó, Sê-khốp đã từng khẳng định:" Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy ". Sê-khốp coi tinh thần nhân đạo là phẩm chất bắt buộc phải có trong mỗi người cầm bút, là tiêu chuẩn, điều kiện để đánh giá mức độ chân chính của nhà văn. Bởi tác phẩm văn học chân chính thể hiện cái tâm của người nghệ sĩ, phải hàm chứa tinh thần nhân văn sâu sắc, chứa đựng niềm vui, nỗi khổ đau của con người. Xuất phát từ sự gắn bó, am hiểu và tình yêu thương với mảnh đất và con người miền núi, từ hiện thực cách mạng với nhiều đổi thay nhà văn đã hướng đến những người lao động bình dị, chất phác bằng tình cảm sâu sắc, mộc mạc, chân thành, yêu thương và cảm phục. Ngược lại, đối với những nhân vật phản diện như A Sử và Thống lí Pá Trá, nhà văn sử dụng những ngôn từ chân thực, mang tính phê phán mạnh mẽ sự lộng hành và ác độc của gia đình nhà thống lý. Người đọc cũng có thể cảm nhận được sự trân trọng, tin yêu của nhà văn với vẻ đẹp của những người dân miền núi. Điển hình, trong mắt Tô Hoài, Mị là người hội tụ của nhiều vẻ đẹp từ ngoại hình, đến tài năng và cả vẻ đẹp của sức sống tiềm tàng, sức phản kháng mãnh liệt. Hơn nữa, với cái nhìn đầy yêu thương, nhà văn đã tìm ra lối thoát cho nhân vật của mình, giải thoát cho đồng bào miền núi bằng ánh sáng cách mạng, khẳng định, tin tưởng vào khả năng, sức mạnh, tương lai tốt đẹp của người dân miền núi. Đồng thời, cách nhìn mới mẻ, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, mang lại chất lượng mới cho văn học kháng chiến, đồng thời thể hiện tài năng, tấm lòng nhà văn Tô Hoài.

" Nghệ thuật nằm ngoài quy luật của sự băng hoại, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết "(Schedrin). Để làm được điều đó, nghệ thuật phải hướng đến con người với một tinh thần nhân đạo sâu sắc. Và như thế, tôi tin rằng" Vợ chồng A Phủ "là một tuyệt tác trường tồn. Áng văn ấy, cùng tên tuổi nhà văn Tô Hoài – một nhà văn, nhà nhân đạo chủ nghĩa sẽ còn sống mãi, ghi một dấu ấn không phải trong nền văn học nước nhà.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
2
3
off
14/06/2023 16:02:26
+4đ tặng

Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, với hơn 70 năm tuổi nghề ông đã để lại cho người đọc cả một gia tài văn hóa nghệ thuật đồ sộ với nhiều thể loại như truyện ngắn, tiểu thuyết, hồi kí, truyện dài... và trong bất kì thể loại nào ông cũng đều đạt được những thành công đặc sắc. Tuy nhiên, đối với thể loại truyện ngắn, có thể nói Vợ chồng A Phủ là một trong những tác phẩm xuất sắc của tác giả và đã được dựng thành phim.

Truyện “Vợ chồng A Phủ được in trong tập “truyện Tây Bắc”. Tác phẩm gồm hai phần: phần đầu trích học trong sách giáo khoa là phần nói về cuộc sống đầy tủi nhục của Mị và A Phủ ở nhà thống lí Pá Tra, kết thúc bằng việc Mị cắt đứt dây trói để cứu A Phủ ở Phiềng Sa. Họ đi theo cách mạng giải phóng quê hương.

Trước khi bị bắt về làm dâu nhà thống lí, Mị là người con gái đẹp, chăm chỉ, hiếu thảo, tâm hồn ăm ắp những khá vọng hạnh phúc. Mị thổi sáo và kèn lá rất giỏi nên có nhiều chàng trai say mê, đêm theo về nhà đứng nhẵn cả đầu vách. Khi bị bắt về nhà thống lí, Mị bị bắt làm con dâu gạt nợ, thực chất là nô lệ. Mị bị vùi dập, chà đạp, cướp đoạt tất cả mọi quyền, sống như kiếp vật. Mở đầu tác phẩm nhà văn đã mô tả hai nghịch cảnh: Mị ngồi quay sợi gai bên tảng đá, cạnh tàu ngựa. Suốt ngày làm lụng vất vả, dù quay sợi, thái cỏ, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước, Mị cũng cúi mặt, buồn rười rượi. Với cảnh nhà thống lí quyền thế, giàu có, người ra vào tấp nập “nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng”. Đây chính là thủ pháp tạo tình huống “có vấn đề” trong lối kể chuyện truyền thống giúp nhà văn mở lối dẫn người đọc cùng tham gia vào hành trình tìm hiểu những bí ẩn của số phận nhân vật.
Sống trong nhà thống lí, Mị bị cướp đoạt sức lao động, sống như một kiếp vật. Mị sống trong tủi cực đúng nghĩa với một kẻ nô lệ khổ sai. Có đến mấy tháng trời đêm nào Mị cũng khóc, suy ngẫm ấm ức, Mị tìm đến nắm lá ngón để giải thoát, nhưng trước những lời thống thiết của người cha già suốt đời nghèo khổ, lòng hiếu thảo trào dâng khôn xiết. Mị nén nỗi đau, chấp nhận quay về chịu kiếp ngựa trâu. Với thủ pháp so sánh tương đồng, nhà văn làm nổi bật cuộc đời cơ cực của Mị. Mị nghĩ mình cũng là con trâu con ngựa vì “là con ngựa phải đổi ở tàu ngựa nhà nà đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết ăn cỏ, biế đi làm mà thôi”. Nhà văn nhấn mạnh hậm chí Mị không bằng con râu, con ngựa vì “con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ”, còn kiếp đàn bà con gái trong cái nhà này thì làm quần quật cả đêm lẫn ngày, tới mức Mị nghĩ “ở lâu trong cái khổ, Mị quen rồi”. Công việc tuần tự ngày này qua tháng khác đơn điệu, tẻ nhạt,.. Mị chỉ biết cúi mặt làm không muốn nghĩ nữa, vật vờ tồn tại như cái xác không hồn. Mỗi ngày Mị càng không nói “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Hình ảnh con rùa lùi lũi gợi ta nhớ đến câu ca dao “Thương thay thân phận con rùa/ Ở đình đội hạc, ở chùa đội bia”, đó là ẩn dụ về thân phận phụ thuộc, cơ cực của người phụ nữ trong xã hội phong kiến mà Mị là số phận tiêu biểu. Căn buồng Mị ở tù túng, âm u, lạnh lẽo “kín mít, có một chiếc cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Rõ ràng đời sống tủi nhục, tăm tối đã lấn át, vùi dập con người Mị, con người trẻ trung ham yêu, ham sống ngày trước, đến nỗi chính Mị cũng không nhận ra. Đó là sự tha hoá của đời Mị mà do chính xã hội gây nên. Mị bị đọa đày cả thể xác lẫn tâm hồn. Chi tiết “một lỗ vuông” gây ám ảnh ngột ngạt, bức bối về một địa ngục trần gian, ẩn dụ cho một cuộc đời bế tắc. Nhà văn đã cất lên tiếng nói nhân quyền của con người để vạch trần, tố các tội ác của bọ chúa đất ở miền núi đã làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi niềm vui sống của con người.

Mùa xuân về, Mị muốn đi chơi. Ước muốn của Mị vừa lóe lên đã bị A Sử dập tắt. A Sử trói Mị đứng suốt đêm trong căn buồng u tối. Dây trói xiết chặt làm da thịt Mị đau nhức như bị đứt ra từng mảng. Đau đớn, xót xa, Mị nghĩ kiếp mình không bằng kiếp ngựa. Kể từ đó tinh thần Mị càng rơi vào vô vọng. Mị đã phải sống với người chồng mình không yêu, không được yêu, Mị còn bị A Sử đánh đập, hành hạ tàn bạo. Khi A Sử bị A Phủ đánh, Mị phải vào rừng hái thuốc về xoa cho hắn. Vậy mà lúc đau mỏi quá thiếp đi, hắn co chân đạp thẳng vào mặt Mị – hành động đó chỉ có ở ác thú. Thật đau đớn và xót xa. Những đêm đông giá lạnh trên núi, nếu không có bếp lửa sưởi ấm làm bạn thì Mị đã chết tàn chết héo. Hằng đêm, Mị dậy thổi lửa, hơ tay không biết bap nhiêu lần. Có đêm A Sử chợt về, thấy Mị ngồi đấy, A Sử đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp. Hành động thật dã man, đó không phải là mối quan hệ vợ chồng mà là quan hệ chủ – tớ.

Một trong những thành công của tác phẩm chính là nghệ thuật mô tả tâm lí và phân tích tâm lí của nhân vật. Ngòi bút nhà văn thật tinh tê và sâu sắc khi mô tả diễn biến tâm lí, sức sống tiềm tàng và sự biến đổi số phận của nhân vật. Mị – người phụ nữ tưởng chừng như cam chịu số phận, không còn đủ sức vượt thoát nhưng trong hoàn cảnh có thể, Mị vẫn bật lên làm chủ cuộc đời. Điều đó được biểu hiện ở chính đêm tình mùa xuân trên rẻo cao.

Đêm tình mùa xuân đã đánh thức niềm yêu sống và khát vọng tự do trong Mị. Ngoài đầu núi, tiếng sáo gọi bạn đi chơi mà lòng Mị thấy bồi hồi xao xuyến. Hòn than bị vùi lấp dưới lớp tro tàn bấy lâu nay giờ được cơn gió xuân thổi tới làm bùng lên ngọn lửa yêu sống và khát khao tự do. Mị nhẩm theo bài hát, Mị uống rượu ừng ực từng bát như muốn quên đi bao nỗi đời cay đắng. Tiếng sáo và hơi men nồng của rượu đã đưa Mị trở về với quá khứ tươi đẹp, Mị nhớ lại khi xưa, Mị muốn được đi chơi, thổi kèn thổi sáo, nhảy múa cùng đám bạn. Mị thấy mình còn trẻ lắm. Cuộc sống trâu ngựa ở nhà thống lí bỗng vụt biến, Mị thấy không còn đáng sợ nữa. Kí ức tưởng như bị nhấn chìm, vùi dập đột nhiên bừng sáng, thôi thúc bao ước vọng trong Mị. Qúa khứ đẹp đẽ, thực tại phũ phàng khiến Mị lại muốn ăn lá ngón mà chết ngay đi để khỏi phải nghĩ, khỏi phải dằn vặt, đau khổ. Nhưng tiếng sáo gọi bạn vẫn réo rắt ngoài đường, xoáy sâu vào trái tim đầy thổn thức của Mị. Tiếng sáo như một ma lực cứ rập rờn, bay bổng, mê hoặc dẫn dụ Mị đi chơi. Mị không còn biết gì khác nữa, tinh thần Mị thăng hoa thoát hẳn đời sống thực tại. Mị xắn thêm mỡ vào đĩa đèn khơi cho ngọn đèn thêm sáng, búi lại mái tóc, với tay lấy cái váy hoa, chẳng cần biết A Sử đã bước vào buồng và hỏi “Mày muốn đi chơi à” trong lòng Mị khi ấy chỉ còn tiếng sáo và khát vọng tự do.

Tô Hoài cảm nhận được ý thức đang sống dậy mạnh mẽ trong Mị. Mị nhận ra mình còn trẻ đẹp, nhận ra được thực trạng mất tự do, bị đè nén bấy lâu nay, nhận ra quyền làm người của mình đã đẩy Mị tới một hành động quyết liệt: đi chơi. Thoát khỏi chốn địa ngục tối tăm để được tự do đón gió trời xuân, hơi xuân, tìm lại những tháng ngày tươi đẹp đã mất. Nhưng khát vọng không thể cứu được số phận. Tấm thân mềm yếu của Mị bị sợi dây tàn bạo A Sử cuốn chặn vào cây cột trong căn buồng u tối cho tới sáng hôm sau. Bước chân vùng đi đã đánh thức Mị trở lại với hiện tại, sợi dây siết chặt vào da thịt đau nhức, Mị nhận ra sự thật tàn khốc. Giấc mơ đẹp vụt tan biến. Mị “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Hai biểu tượng của ước mơ tụ do và thực tại hiện ra qua hai âm thanh đối nghịch: tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết và tiếng chân ngựa đạp vào vách, tiếng chân ngựa đã bóp nghẹt trái tim Mị. Đau đớn, xót xa Mị nhận ra kiếp con người chẳng bằng kiếp con vật “Đời người đàn bà lấy chồng ở Hồng Ngài một đời chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng”.

Khép lại khát vọng được đi chơi, được sống tự do trong những đêm tình mùa xuân, Mị lại rơi vào tình cảnh bi đát hơn trước đó. Mị bị dìm xuống sâu hơn kiếp ngựa trâu, bị tước đoạt quyền làm người. Cảnh ngộ ấy cũng là lời lên án tố cáo đối với hành động tàn độc của cha con thống lí – đại diện cho giai cấp thống trị ở miền núi.

Khát vọng tự do của Mị trong đêm tình mùa xuân năm trước chưa được thực hiện thì trong đêm đông lạnh giá này, Mị quyết định cắt dây trói cứu A Phủ và giải phóng cho chính mình. Đây là bước đột biến quyết liệt làm thay đổi cả cuộc đời Mị. Xây dựng nhân vật Mị, nhà văn luôn đặt nhân vật vào thế đối lập giữa hoàn cảnh và số phận, giữa ngoại hình là nội tâm để từ đó đem đến cho người đọc những bất ngờ trong cách giải quyết. Từ sau cái đêm tình mùa xuân đầy nghiệt ngã ấy, Mị ngày càng trở nên chai lì, vô cảm, vô vọng. Cuộc đời Mị có lẽ cứ thế tiếp diễn nếu như không có sự xuất hiện của A Phủ. Cảnh A Phủ bị cha con thống thí trói đứng vào cột giữa những ngày Hồng Ngài rét buốt, bị bỏ đói khát đã làm thức dậy tinh thần phản kháng của người đàn bà yếu đuối tưởng như không còn sức sống này.

Cảnh A Phủ bị trói trong đêm mùa đông làm một sự kiện làm thức tỉnh ý thức sống của Mị. Lại một đêm nữa Mị trở dậy, ngọn lửa sáng bừng lên cùng lúc, Mị lóe mắt trông sang thấy hai mắt A Phủ mở trừng trừng mới biết là A Phủ vẫn còn sống “một dòng nước mắt bò xuống hai hõm má đã sạm đen lại”. Đây là chi tiết đàu mối trong sự đột biến tâm lí của Mị. Mị chợt nhớ lại năm trước Mị cũng bị A Sử trói đứng trong cái nhà này, tóc bị quấn ngang cổ, nước mắt chảy xuống không lau được, đau đớn, bất lực chẳng khác gì A Phủ bây giờ. Trái tim đầy thương tích của Mị bỗng thấy thương người, thương thân. Mị quyết định cắt dây trói cứu A Phủ. Cắt dây trói, A Phủ quật sức vùng chạy, Mị đứng lặng trong bóng tối nhìn chiếc cột bỏ không, hoảng hốt, bàng hoàng nhận ra sự nổi loạn của mình. Cái chết chập chờn trước mắt. Với bản năng, Mị vụt chạy theo A Phủ và thổn thức “A Phủ cho tôi đi ! Ở đây thì chết mất”.

Tình huống diễn ra mau lẹ, bất ngờ, tự nhiên nhưng rất logic, phù hợp với sự phát triển tính cách của nhân vật. Hành động cắt dây trói cho A Phủ là hành động cắt đứt, đoạn tuyệt với quá khứ khổ đau cho cả hai người. Như cánh chim sổ lồng tăm tối, họ băng băng xuống dốc núi, bay về phía tự do.

Không như chị Dậu trong tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố, chị Dậu bơi trong đem tối như tiền đồ không lối thoát, không như Chí Phèo của Nam Cao, rút dao giết chết kẻ thù rồi kết liễu cuộc đời mình. Trong ngõ cùng bế tắc nhất, ý thức sống đã hóa thành một hành động phản kháng mãnh liệt, táo bạo, Mị vùng lên chống lại cường quyền, chống lại mọi sự áp bức, chà đạp, lăng nhục, vật hóa con người, cứu lấy cuộc đời, giành lại hạnh phúc mà Mị bị cướp đoạt và A Phủ đã từng khao khát. Từ đây cuộc đời của hai con người khổ đau đã được hồi sinh, mở ra một trang mới.

Xây dựng nhân vật A Phủ trong tác phẩm, Tô Hoài muốn tô đậm thêm bức tranh hiện thực về đời sống cơ cực, tăm tối của đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao dưới ách thống trị của bọn thực dân, chúa đất

A Phủ xuất hiện khá đột ngột gây ấn tượng mạnh cho người đọc, đó là cảnh A Phủ đánh A Sử. A Phủ cũng như Mị, họ đều là nhũng người dân nghèo bị gia đình thống lí Pá Tra áp bức, bóc lột và trở thành con nợ – nô lệ. Song ở họ đều có tình yêu và khát vọng giải phóng. A Phủ mồ côi cha mẹ khi mới lên mười tuổi trong một trận dịch khủng khiếp. A Phủ trở thành đứa trẻ bơ vơ bị người làng bán để đổi láy thóc ăn. A Phủ không chịu đã trốn lên vùng cao, làm thuê làm mướn kiếm sống và lưu lạc tới Hồng Ngài. Ngay từ nhỏ, A Phủ đã có cá tính rất đặc biệt: gan góc, có ý thức phản kháng mỗi khi không chịu nổi điều gì. A Sử phá đám chơi của A Phủ và bạn bè, A Phủ đánh “xộc tới nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp”. Sau hành động nhanh, mạnh, dứt khoát của ý thức phản kháng đó A Phủ bị nhà thống lí trói, đánh đập, chửi bới rất dã man trong cuộc xử kiện. A Phủ phải quỳ chịu trận trong làn mưa roi và khói thuốc phiện, không được nói, không được thanh minh. Cảnh xử kiện kết thúc, từ đây A Phủ phải làm nô lệ suốt đời cho nhà thống lí để trả nợ.

Qua cuộc đời và số phận của A Phủ, Tô Hoài đã tố cáo tội ác dã man của giai cấp thống trị ở miền núi, tiêu biểu là cha con thống lí Pá Tra. Chúng đã cấu kết với bọn thực dân đẩy những con người hiền lành, chất phác vào tình trạng thảm hại, bị cướp đoạt sức lao động và quyền làm người, trở thành nô lệ không hơn không kém.

Truyện “Vợ chồng A Phủ” là một sự thật về cuộc đời của những người lao động ở vùng cao Tây Bắc. Câu chuyện hấp dẫn và lôi cuốn người đọc qua cách kể truyện rất riêng của Tô Hoài. Mở đầu như một câu chuyện cổ tích nhưng lại là một mảnh đời, một số phận bằng xương, bằng thịt. Nhà văn đan xen giữa quá khứ và hiện tại gợi lên nhiều cung bậc cảm xúc cho người đọc. Nghệ thuật xây dựng và phân tích tâm lí nhân vật cũng là một thành công trong ngòi bút của Tô Hoài. Thông qua việc xây dựng hai hình tượng Mị và A Phủ nhà văn lên tiếng tố cáo thế lực thực dân phong kiến miền núi đã áp bức, đọa đày, cướp đoạt quyền sống và quyền hạnh phúc của con người

Khép lại tác phẩm, Vợ chồng A Phủ đã để lại trong lòng người đọc vẻ đẹp của lòng nhân đạo, tình yêu thương, đồng cảm sâu sắc với những kiếp người nghèo khổ. Qua hai nhân vật Mị và A Phủ nhà văn đã làm hiện lên sức sống tiềm tàng, tinh thần phản kháng của những người dân lao động nghèo khổ, luôn đấu tranh để tìm đến ánh sáng của tự do.

3
2
Tâm Như
14/06/2023 16:56:49
+3đ tặng
Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh năm 1920 trong một gia đình thợ dệt thủ công ở làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (quê ngoại), nay là phường Nghĩa Đô, quận cầu Giấy, Hà Nội. Quê nội của ông ở Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (cũ). Thời trai trẻ, ông phải vất vả kiếm sống bằng nhiều nghề như dạy kèm, thợ thủ công, bán hàng, làm kế toán hiệu buôn… Vốn có năng khiếu văn chương nên Tô Hoài sáng tác rất sớm và được dư luận chú ý ngay từ những tác phẩm đầu tay, nhất là cuốn truyện viết cho thiếu nhi Dế Mèn phiêu lưu kí.

Năm 1943, Tô Hoài tham gia Hội Văn hóa cứu quốc. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, ông viết báo và hoạt động văn nghệ ở Việt Bắc. Sau hơn bảy mươi năm miệt mài lao động nghệ thuật, Tô Hoài đã sáng tác và xuất bản gần 200 tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau: truyện ngắn, tiểu thuyết, kí, tự truyện, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác… Do có trình độ hiểu biết sâu rộng và vốn sống phong phú về phong tục, tập quán của nhiều dân tộc ở nhiều vùng miền khác nhau trên đất nước nên sáng tác của Tô Hoài thiên về diễn tả những tình cảnh của đời thường. Tác phẩm của Tô Hoài luôn hấp dẫn người đọc bởi lối kể chuyện hóm hỉnh, sinh động, bởi vốn từ vựng giàu có lạ thường. Năm 1996, Tô Hoài được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật.

Tác phẩm chính: Dế Mèn phiêu lưu kí, (truyện cho thiếu nhi, 1941), Ổ chuột (tập truyện, 1942), Quê người (tiểu thuyết, 1942), Nhà nghèo (tập truyện ngắn, 1944), Truyện Tây Bắc (tập truyện, 1953), Miền Tây (tiểu thuyết, 1967), Cát bụi chân ai (hồi kí, 1992), Chiều chiều (tự truyện, 1999), Ba người khác (tiểu thuyết, 2006)..

Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ sáng tác năm 1952, in trong tập Truyện Tây Bắc (1953), được tặng giải Nhất – giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn đặc sắc có sức lôi cuốn, hấp dẫn thực sự bởi giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Thông qua số phận Mị và A Phủ, nhà văn đã dựng lại quãng đời đau khổ, tối tăm của người dân miền núi và phản ánh quá trình đến với cách mạng của họ.

Tác phẩm kể về cuộc đời của đôi vợ chồng trẻ người Mông là Mị và A Phủ. Mị bị bắt về làm con dâu trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra. A Phủ vì dám đánh A Sử, con trai thống lí nên bị phạt vạ làm đầy tớ không công. Cùng cảnh ngộ đau khổ, Mị đã cứu A Phủ. Hai người trốn khỏi nhà Pá Tra, tìm đến tận Phiềng Sa, thành vợ thành chồng, cùng nhau xây dựng cuộc đời mới. Được cán bộ cách mạng giác ngộ, Mị và A Phủ tham gia lực lượng du kích bảo vệ khu giải phóng.

Dưới thời thực dân phong kiến, bọn lang đạo chúa đất ở vùng cao mặc sức làm mưa làm gió. Chúng nắm trong tay mọi quyền lực, tự cho rằng mình có quyển sinh, quyền sát nên coi tính mạng người dân như cỏ rác. Cha con tôn thống lí Pá Tra với tính cách bạo ngược và lối sống phè phỡn trên mồ hôi nước mắt người nghèo tiêu biểu cho giai cấp thống trị ở miền núi. Cũng như bao tên chúa đất khác, thống lí Pá Tra dùng mọi thủ đoạn hiểm độc trong việc áp bức, bóc lột dân chúng, đẩy họ vào cảnh bần cùng để rồi biến họ thành nô lệ. Mị và A Phủ là hai trong nhiều nạn nhân khác của hắn.

Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ được thể hiện qua số phận của hai nhân vật Mị và A Phủ.

Mị là cô gái xinh đẹp, khỏe mạnh, được nhiều trai bản yêu mến. Cuộc sống tốt lành đang chờ cô phía trước, nhưng chỉ vì món nợ của cha mẹ vay thống lí từ ngày cưới cho đến nay vẫn chưa trả được nên Mị bị bắt về làm con dâu trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Hắn coi Mị như một thứ đồ vật để thay thế cho số tiền mà cha mẹ cô còn nợ hắn.

Mở đầu tác phẩm, tác giả đã miêu tả hình ảnh người con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Một cô gái cô độc, âm thầm gần như lẫn vào, giữa các sự vật vô tri: cái quay sợi, tảng đả, tàu ngựa… trong khung cảnh đông đúc, tấp nập của nhà quan thống lí. Là con dâu của một gia đình quyền thế có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng, vậy tại sao lúc nào cô gái ấy cũng buồn?! Tác giả đã tạo ra tình huống có vấn đề để dẫn dắt người đọc cùng tìm hiểu số phận của nhân vật chính trong tác phẩm.

Trước hết, Tô Hoài kể về cảnh ngộ éo le của gia đình Mị, về món nợ truyền kiếp khiến Mị bị bắt về làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Tiếng là con dâu nhà quan nhưng thực chất Mị là con nợ, là đày tớ, là nô lệ. Cô đã bị cúng “trình ma” nhà thống lí nên không thể chạy đâu cho thoát, sẽ phải sống khốn khổ cho đến tàn đời. Người con dâu gạt nợ ấy bị đày đọa bởi những công việc lao động khổ sai hằng ngày, nhưng đáng sợ hơn cả là sự ràng buộc vĩnh viễn về tinh thần khiến cô cảm thấy mình còn sống mà như đã chết.

Mị đã linh cảm về số phận bất hạnh của mình. Lúc đầu, cô tự tin cho rằng mình có thể trả được món nợ của gia đình. Cô van xin cha: Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu. Nhưng sự thông minh và lòng can đảm của một cô gái mới lớn không chống được mưu chước thâm độc của cha con tên thống lí. Mị đã bị tròng vào cổ hai cái thòng lọng vô hình là làm con nợ và làm con dâu tên thống lí Pá Tra tham lam, độc ác.

Phải sống với A Sử, kẻ mà cô căm ghét và oán hận là nỗi khổ sở, đau đớn không thể nguôi ngoai của Mị. Suốt mấy tháng trời, đêm nào Mị cũng khóc. Mị đã định ăn lá ngón để tự tử. Trước khi chết, cô đã về lạy cha, nhưng lời kêu van thống thiết của cha già: Mày về lạy chào tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ. Mày chết rồi thì không lấy ai làm nương ngô giả được nợ người ta, tao thì ốm yếu quá rồi. Không được, con ơi! khiến Mị phải nuốt nỗi cay đắng, tủi nhục vào lòng, đành quay trở lại nhà thống lí.

Quãng đời Mị sống với cha con tên thống lí là chuỗi ngày vất vả và đau khổ. Kẻ ác đã cướp mất tuổi thanh xuân của Mị, biến cô gái xinh đẹp, hồn nhiên thành người đàn bà héo úa, lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi… Mị sống âm thầm lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.

Cuộc sống của Mị ngập chìm trong đau khổ triền miên. Không có ai để chia sẻ tâm tình, cô chỉ biết làm bạn với ngọn lửa trong những đêm đông dài và buồn. Tâm hồn Mị lạnh lẽo, trống vắng, nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo… Ngọn lửa là người bạn duy nhất giúp Mị xua bớt phần nào bóng tối u ám đang vây phủ cuộc đời cô.

Âm thầm và câm lặng như một cái bóng, đó là cách sống mà Mị lựa chọn, cho dù nó trái ngược hoàn toàn với bản tính sôi nổi, yêu đời của cô gái một thời xinh đẹp và tài hoa. Bây giờ, Mị không nghĩ đến chuyện chết nữa vì đã quá quen với cái khổ rồi và cho rằng mình còn sống mà như đã chết bởi cuộc sống chẳng còn nghĩa lí gì. Đời Mị cứ thế lặng lẽ trôi đi. Cái ác của bọn thống trị là đã giết chết phần tốt đẹp trong con người Mị. Mị bị đày đọa đến mức tinh thần phản kháng cũng dần dần tê liệt. Tiếng thở dài của cô thể hiện thái độ buông xuôi phó mặc cho số phận: Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Con trâu, con ngựa nhà giàu đêm còn được nghĩ, còn cô không lúc nào ngớt việc.

Bị biến thành một thứ công cụ lao động mà nỗi cực nhục mà Mị phải chấp nhận và chịu đựng. Nhưng sự ê chề của kiếp sống nô lệ chưa dừng lại ở đó, Mị còn phải chịu sự đày ải kéo dài về tinh thần. Cuộc đời ngột ngạt, tối tăm của Mị chẳng khác gì hình ảnh: … Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng.

Nhà văn Tô Hoài không đơn thuần phản ánh bi kịch mà còn đi sâu miêu tả và thể hiện sức sống tiềm tàng dẫn tới hành động phản kháng mãnh liệt và táo bạo của Mị. Trong đêm xuân, tâm trạng của Mị xốn xang, bồi hồi khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha, khi khát vọng được yêu, được sống bừng dậy mãnh liệt trong lòng.

Sự hồi sinh của nhân vật Mị được tác giả miêu tả sâu sắc và tinh tế, phù hợp với tính cách của người con gái ấy. Những yếu tố bên ngoài tác động vào tâm lí nhân vật như khung cảnh mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tình, bữa rượu cúng ma đón năm mới… đã thức tỉnh tất cả cảm xúc của Mị: căm ghét sự bất công, tàn bạo, khao khát một cuộc sống tự do, hạnh phúc.

Trong đêm xuân, tiếng sáo, tiếng khèn, tiếng reo hò náo nức của đám trai gái và lũ trẻ con tụ tập ở sân chơi đầu làng vẳng lại: Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Cái không khí nồng nàn của mùa xuân như được tăng thêm bởi bữa rượu ngày Tết ở nhà thống lí với tiếng chiêng đánh ầm ĩ và đám người nhảy đồng, người hát… Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say… Mị đang sống trong một trạng thái khác thường. Men rượu làm cho Mị lâng lâng say, nhưng tâm hồn cô thì từ từ thức tỉnh sau bao tháng ngày câm lặng, mụ mị vì sự đọa đày. Cái cách uống rượu ực từng bát khiến người ta nghĩ như thể Mị đang cố uống cho cạn những đắng cay của phần đời đã qua và uống sự khao khát của phần đời chưa tới. Men rượu và những âm thanh náo nhiệt của ngày Tết khiến Mị đã vượt ra khỏi tâm trạng thờ ơ, nguội lạnh bấy lâu nay. Dấu hiệu tích cực đầu tiên là Mị nhớ lại những kỉ niệm đẹp của thời con gái chưa xa, với những bữa rượu bên bếp lửa ấm áp, với tiếng sáo dặt dìu, du dương của bao nhiêu trai làng ngày đêm đi theo Mị…

Nhớ lại quá khứ có nghĩa là Mị đã thoát ra khỏi tình trạng sống mà như đã chết. Niềm vui đã trở lại với Mị: Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Sức sống bấy lâu nay bị đè nén giờ đây trỗi dậy mạnh mẽ, không gì ngăn nổi.

Xuất hiện trong tâm trí Mị đầu tiên là một ý nghĩ lạ lùng mà rất chân thật: Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa,.., Nghịch lí trên cho thấy khi niềm khao khát sống được khơi lên, nó sẽ trở thành một mãnh lực xung đột gay gắt với trạng thái vô nghĩa của thực tại. Ý nghĩ về cái chết lúc này là biểu hiện của sự phản kháng thực tại, chứng tỏ rằng Mị đã ý thức sâu sắc về tình cảnh đau đớn, tủi nhục của mình.


Trong khi đó, tiếng sáo gọi bạn tình cứ thôi thúc, mời gợi. Tiếng sáo là biểu tượng của sự sống, tình yêu, tự do mà bấy lâu nay dường như Mị đã cố quên, nay nó đang trở lại. Tiếng sáo được miêu tả song hành với diễn biến tâm trạng nhân vật Mị, nó chính là ngọn gió thổi bùng lên đốm lửa vẫn đang âm ỉ cháy trong lòng cô gái luôn khao khát tình yêu. Tiếng sáo đầy ám ảnh đã nhập vào thế giới tâm hồn Mị. Giờ đây, trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo.

Sức sống trỗi dậy trong con người Mị như những đợt sóng ào ạt, đợt sau mạnh mẽ hơn đợt trước và đã biến thành hành động: Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Có thể coi đây là một hành động có ý nghĩa thức tỉnh: Mị đã tự thắp lên một ngọn đèn soi rọi vào cuộc sống tối tăm của mình để tìm ra lối thoát. Con người đích thực trong Mị đã sống lại, hòa lẫn với con người thực tại, khiến tâm trạng cô chập chờn, bất định. Mị vừa sống với thực tại, vừa sống với quá khứ. Hành động này thúc đẩy hành động khác tiếp theo như một phản ứng dây chuyền.

Dường như không đếm xỉa gì đến những ràng buộc khắt khe của cường quyền, thần quyền, những xiềng xích tàn bạo của nhà thống lí Pá Tra, Mị hành động như một con người tự do theo suy nghĩ, cảm xúc của mình. Cô quấn lại tóc, lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách, sửa soạn đi chơi Tết.

Giữa lúc khát vọng sống của Mị trỗi dậy mãnh liệt nhất thì cũng là lúc nó bị dập vùi phũ phàng nhất: A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong vợ, A Sử thắt nốt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi A Sử tắt đèn, đi ra, khép cửa buồng lại. Trong từng động tác, người đọc thấy toát lên sự tàn ác đến thản nhiên, lạnh lùng của một kẻ đã mất hết nhân tính.

Suốt đêm, Mị bị trói đứng vào cột. Mị đã sống trong sự giằng xé mãnh liệt giữa khao khát hạnh phúc cháy bỏng và thực tại đau khổ, tủi nhục. Lúc mới bị trói, Mị vẫn thả hồn theo tiếng sáo và những đám chơi Tết ngoài kia: Tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. Mị hầu như quên là mình đang bị trói, quên những sợi dây trói thít vào da thịt đau nhức. Trong giây phút khát vọng sống thôi thúc mãnh liệt, Mị đã vùng bước đi, nhưng Mị không thể thoát ra được. Sự đối lập gay gắt giữa ước mơ bay bổng và thực tại phũ phàng hiện ra trong hai âm thanh trái ngược: tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết và tiếng chân ngựa đạp vào vách khô khốc: Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.

Thực tại đen tối đã lấn át, bóp nghẹt những ước mơ, khát vọng tươi sáng. Nhưng nhà văn không để nhân vật của mình tuyệt vọng. Điều kì diệu là dẫu trong hoàn cảnh cùng cực nhất thì mọi thế lực tội ác cũng không hủy diệt được sức sống của con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt. Trong sâu thẳm tâm hồn cô vẫn âm ỉ, le lói một ngọn lửa yêu đời. Phản ứng tự phát ban đầu chưa thể giải phóng được cuộc đời Mị nhưng những giây phút trỗi dậy lúc này có ý nghĩa thức tỉnh. Giống như đốm lửa âm ỉ trong đám tro tàn, có ngày sẽ bùng cháy dữ dội.

Ngày ấy đã đến với Mị. Trước cảnh một con người khí phách ngang tàng như A Phủ mà phải bị đánh, bị trói và lặng lẽ khóc cho thân phận tủi nhục của mình, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này… Cỡ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết thế… Mị không cầm lòng được, Mị động lòng thương người, thương thân. Mị nhớ đến những khổ sở, hãi hùng mà mình đã phải chịu đựng suốt mấy năm qua. Nước mắt đau khổ của A Phủ khơi dậy nỗi đau lắng chìm trong lòng Mị. Cảm thương số phận A Phủ và căm thù cha con tên thống lí độc ác, Mị quên cả sợ hãi nên đã có hành động táo bạo bất ngờ là cắt dây trói cứu A Phủ.

Hành động đó tuy bộc phát nhưng hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên. Mị đã từng hứa gắng làm rẫy để trả nợ thay bố, đã cắn răng chịu khổ nhục làm con dâu trừ nợ, từng định tìm đến cái chết để giải thoát, thì sao Mị lại không dám chết để cứu một người vô tội cùng cảnh ngộ như mình?

Mị cắt dây trói cứu A Phủ và đột ngột quyết định chạy theo A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài. Hành động ấy chứng tỏ khi khát vọng sống tiềm tàng trong con người bừng dậy, nó sẽ là ngọn lửa dữ dội không thể dập tắt. Nó sẽ biến thành thái độ phản kháng giai cấp thống trị. Những con người bị áp bức sẽ vùng lên đối đầu với bạo lực, cường quyền để tự giải phóng khỏi thân phận nô lệ.

Đây là kết quả tất yếu của một quá trình bị dồn nén, áp bức về tinh thần, đọa đày về thể xác, bây giờ đã đến lúc phải chấm dứt. Mị cắt dây trói cứu A Phủ đổng thời cũng là tự cắt đứt sợi dây vô hình đã trói chặt cô vào quãng đời tủi nhục. Một hành động bất ngờ hơn và quyết liệt hơn xảy ra ngay sau đó. Mị thoáng nghĩ đến việc có thể chết thay cho A Phủ, nhưng khi A Phủ vừa chạy đi, lập tức Mị cũng chạy theo đuổi kịp A Phủ: A Phủ cho tôi đi … Ở đây thì chết mất. Mị đã cứu A Phủ thì tại sao cô lại không tự cứu mình? Nhà văn đã miêu tả rất đúng những chuyển biến mau lẹ, tự nhiên và hợp lôgíc của tâm trạng nhân vật trong tình huống gay cấn giữa cái chết và sự sống.

Hai con người cùng cảnh ngộ đã lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi, bỏ thật xa cái địa ngục đã giam cầm, đày đọa họ suốt mấy năm trời. Từ trong cái chết, họ vùng dậy tìm lẽ sống, làm lại cuộc đời.

Cũng như Mị, nhân vật A Phủ có số phận đặc biệt. Từ nhỏ anh đã mồ côi cha mẹ, không còn ai thân thích trên đời. A Phủ đã từng bị bắt cóc đem xuống núi bán đổi lấy thóc của người Thái. Tuy mới mười tuổi nhưng A Phủ không thích ở dưới cánh đồng thấp, cố tìm cách trốn thoát rồi lưu lạc tới Hồng Ngài. Lớn lên giữa núi rừng, A Phủ trở thành chàng trai khỏe mạnh, cường tráng, chạy nhanh như ngựa, biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo. Con gái trong làng nhiều cô mê: Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu. Người ta ao ước đùa thế thôi chứ A Phủ rất nghèo, không có cha mẹ, không có ruộng nương, tiền bạc, chỉ làm thuê làm mướn kiếm sống qua ngày. Tục lệ cưới xin vô cùng tốn kém nên A Phủ không thể nào lấy nổi vợ.

Cuộc sống hoang dã cùng hoàn cảnh sống cực nhọc, vất vả đã hun đúc A Phủ trở thành một chàng trai có tính cách mạnh mẽ, táo bạo, can đảm và nghĩa khí. A Phủ không sợ bọn con quan mà thẳng tay trừng trị khi chúng quấy phá cuộc vui xuân của bạn bè mình. A Phủ đã nắm lấy cái vòng cổ bằng bạc có tua chỉ xanh đỏ của A sử (dấu hiệu con cái nhà quan) để kéo dập đầu nó xuống, xé áo nó ra mà đánh cho hả giận.

A Phủ đã phải trả giá rất đắt cho hành động táo tợn của mình. Trận đánh liều lĩnh, hào hứng ấy hóa ra lại là sự mở đầu cho một chặng đường khổ sở tột cùng trong đời A Phủ. Anh bị thống lí Pá Tra bắt, đánh đập và phạt vạ. Người đọc không thể quên đoạn văn tả cảnh phạt vạ với những hình ảnh, chi tiết rất đắt: động tác vuốt ngược cái đầu trọc, kéo đuôi tóc dài ra đằng trước rồi lè nhè gọi của Pá Tra; cái dáng quỳ bất động suốt một ngày đêm như hóa đá của A Phủ; cái cách hành hạ vừa dã man vừa lộn xộn của bọn tay sai, người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới… rồi lời kết án vô lí và kì cục của tên thống lí… Sự am tường những tập quán lạ lùng của vùng cao là chất liệu quý giá giúp Tô Hoài tạo dựng nên cảnh phạt vạ có một không hai trong văn học hiện đại.

Nhà văn Tô Hoài tỏ ra rất sắc sảo trong việc miêu tả con người và cuộc sống vùng cao. Cha con tên thống lí cùng lũ tay sai là hiện thân của giai cấp thống trị tàn ác, vô nhân đạo. Bọn lí dịch, quan làng, thống quản… lợi dụng chuyện A Phủ đánh A Sử để kéo đến nhà thống lí xử kiện và ăn cỗ suốt từ trưa cho đến hết đêm. Mấy chục người hút thuốc phiện rào rào. Cứ mỗi đợt chúng hút xong, A Phủ lại phải quỳ ra giữa nhà để lũ tay sai của tên thống lí xô đến đánh: Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút…

Trong đoạn văn tả cảnh phạt vạ thì chi tiết cuối cùng là chi tiết gây ấn tượng sâu sắc: Đến lúc không phải quỳ, phải đánh nữa, A Phủ được đứng lên, chân đau bước tập tễnh nhưng phải tự tay cầm dao làm thịt lợn để hầu hạ chính những kẻ đã đánh đập mình, biến mình từ nay thành nô lệ cho nhà thống lí.

Cho dù phải sống với thân phận kẻ đầy tớ trừ nợ trong nhà thống lí nhưng A Phủ vẫn là một chàng trai của tự do. Quanh năm, A Phủ bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng, làm phăng phăng mọi việc. Một hôm, vì mải bẫy nhím, để hổ bắt mất con bò, A Phủ điềm nhiên vác nửa con bò hổ ăn dở về và bảo Pá Tra cho mượn súng đi bắn hổ, coi đó là chuyện rất dễ dàng. A Phủ không sợ bất cứ ai. Con hổ hay thống lí Pá Tra cũng vậy. Kể cả khi lẳng lặng đi lấy cọc và dây mây, rồi tự tay đóng cọc để lũ tay sai của thống lí trói đứng mình vào đó, A Phủ vẫn thản nhiên. Là người mạnh mẽ và gan góc, A Phủ không sợ cả cái chết… “

Tô Hoài phát hiện ra hai nét tính cách đối lập nhau trong con người A Phủ: một A Phủ can đảm, bất khuất và một A Phủ cam phận tôi đòi. A Phủ này biểu trưng cho phẩm chất tốt đẹp của con người, còn A Phủ kia lại biểu trưng cho sự nhục nhã. Hai mặt đối lập ấy song song tồn tại. Đó chính là nguồn gốc của sự vận động và phát triển nội tại của hình tượng A Phủ.

Chạy trốn khỏi Hồng Ngài, thoát khỏi ách áp bức của thống lí Pá Tra, Mị và A Phủ lại gặp phải một kẻ thù không kém phần nguy hiểm là giặc Pháp. Chúng là lũ cướp nước đồng thời cướp cả quyền tự do được sống làm người. Chúng chẳng khác gì bọn cường hào, ác bá miền núi.

Giặc Pháp càn lên núi cao, đốt nhà, cướp của, bắt người. A Phủ bị chúng cướp mất đôi lợn, bị đánh, bị bắt đi phu khiêng đá xây đồn… A Phủ căm thù giặc Pháp vì anh đã nhận thức được rằng mình là người tự do; của cải bị chúng cướp đi là mổ hôi, nước mắt của mình - phải nhớ lấy để mà trả thù.

Sống ở Phiềng Sa, Vợ chồng A Phủ mới thực sự được làm người. Họ được cán bộ A Châu giáo ngộ cách mạng. Từ một chàng trai nghèo khổ, nô lệ, A Phủ đã trở thành một du kích dũng cảm, tự tin và thực sự trở thành chỗ dựa tinh thần của Mị. Sống bên A Phủ, Mị dần dần hết lo sợ, cô vững tin vào cuộc sống mới, vào kháng chiến.

Giá trị hiện thực của truyện ngoài việc tái hiện đoạn đời khổ ải của những người nô lệ còn nói đến một sự thật xót xa: người dân bị áp bức, đè nén quá lâu sẽ bị tê liệt tinh thần phản kháng, sẽ bị đầu độc bởi tâm lí nô lệ. Bạo lực của bọn chúa đất cấu kết với thần quyền, với mê tín dị đoan, với thực dân Pháp trong giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã làm cho họ không cất đầu dậy nổi. Nhưng trong cuộc đời, có áp bức tất có đấu tranh. Mị và A Phủ cũng như bao người khác sẽ vùng lên tự giải phóng, giành quyền làm người tự do. Đoạn đời sau của Vợ chồng A Phủ đã chứng minh quy luật muôn đời ấy.

Trong giá trị hiện thực của tác phẩm đã ẩn chứa giá trị nhân đạo sâu xa. Có căm thù giai cấp thống trị và xã hội bất công, tác giả mới lên tiếng tố cáo mạnh mẽ. Có thực sự cảm thương số phận đau khổ của con người, tác giả mới viết nên những trang văn gây xúc động mạnh mẽ như vậy.

Tính nhân đạo của tác phẩm trước hết thể hiện ở sự bênh vực và cảm thông sâu sắc với số phận của những con người bất hạnh như Mị và A Phủ. Ở khía cạnh này, Tô Hoài tỏ ra có sự am hiểu sâu sắc từ đời sống vật chất đến đời sống tâm lí của đồng bào các dân tộc miền núi Tây Bắc.

Trong khi miêu tả, bên cạnh sự cảm thông với những trớ trêu của số phận, người đọc cũng cảm nhận được khá rõ thái độ của nhà văn: tố cáo sự tàn bạo của bọn quan lại phong kiến miền núi, căm giận những thế lực chà đạp lên nhân phẩm con người. Tô Hoài còn phát hiện và trân trọng những phẩm chất cao đẹp như khát vọng tự do, hạnh phúc và sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người dân miền núi.

Tô Hoài không chấp nhận để nhân vật của mình bị đẩy vào tình thế bế tắc và tuyệt vọng. Phần một khép lại với kết thúc tốt đẹp. Mị và A Phủ đã tự giải thoát. Sang phần hai của tác phẩm, họ đã thành vợ thành chồng, được sống một cuộc sống tự do ở khu du kích Phiềng Sa.

Số phận khổ đau, nô lộ của Mị và A Phủ tiêu biểu cho số phận người dân miền núi dưới chế độ cũ. Bần cùng hóa con người, chà đạp lên nhân phẩm, tình yêu, hạnh phúc là chuyện thường thấy ở cả miền xuôi lẫn miền ngược.

Truyện Vợ chồng A Phủ là một trong những truyện giải quyết được khá sớm vấn đề số phận của con người trong xã hội thực dân, phong kiến.

Thành công cơ bản của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là nghệ thuật xây dựng nhân vật, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Cả hai nhân vật Mị và A Phủ đều thể hiện một cách sống động vả chân thực những nét riêng, nét lạ trong tính cách của người Mông nói riêng và đồng bào miền núi nói chung. Trên hết là một lối sống mộc mạc, hồn nhiên, phóng khoáng, tự do. Những phẩm chất này khiến người Mông có một sinh lực sống dồi dào khiến họ đủ sức mạnh để vượt qua bất cứ sự áp bức đè nén nào. Mị bề ngoài lặng lẽ, âm thầm, nhẫn nhục nhưng bên trong sôi nổi một khát vọng sống, khát vọng tự do và hạnh phúc. A Phủ táo bạo, gan góc mà chất phác, tự tin. cả hai cùng là nạn nhân của bọn chúa đất, quan lại thống trị miền núi tàn bạo, độc ác. Trong con người họ tiềm ẩn sự phản kháng vô cùng mãnh liệt.

Bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo của Tô Hoài thể hiện rõ nhất qua việc thể hiện những diễn biến nội tâm tinh tế và phức tạp của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân và hành động Mị cắt dây trói cứu A Phủ.

Tô Hoài vốn là nhà văn có biệt tài miêu tả thiên nhiên và những phong tục, tập quán xã hội. Khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng cùng con người Tây Bắc với tính cách độc đáo… đã được tác giả khắc họa bằng ngòi bút tài hoa, mang phong vị đặc trưng của vùng núi rừng Tây Bắc.

Nghệ thuật kể chuyện của Tô Hoài uyển chuyển, linh hoạt, vừa tiếp thu truyền thống vừa sáng tạo. Nhà văn chủ yếu vẫn kể chuyện theo trình tự thời gian, tạo nên một dòng chảy liên tục nhưng nhiều lúc đan xen quá khứ với hiện tại một cách tự nhiên, hợp lí để làm nổi bật điểu cần thể hiện.

Qua việc miêu tả số phận của hai nhân vật Mị và A Phủ, nhà văn Tô Hoài đã làm sống lại trước mắt người đọc cả quãng đời tăm tối, cơ cực của người dân miền núi dưới ách thống trị dã man của bọn quan lại, chúa đất phong kiến. Quá trình giác ngộ cách mạng của vợ chồng A Phủ tiêu biểu cho con đường đến với Đảng, với cách mạng của đồng bào các dân tộc thiểu số ở miền núi. Qua các hình tượng văn học trong tác phẩm, tác giả gián tiếp khẳng định chỉ có cách mạng mới giải phóng con người ra khỏi ách thống trị đầy áp bức bất công, giúp con người vươn tới cuộc sống tự do, hạnh phúc. Đó chính là giá trị hiện thực và nhân đạo to lớn của tác phẩm. Giá trị này giúp truyện đứng vững trước thử thách của thời gian và vẫn được nhiều thế hệ bạn đọc yêu thích.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 12 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư