Huy Cận là gương mặt nhà thơ tiêu biểu trong phong trào Thơ mới của Việt Nam. Trước cách mạng tháng Tám, thơ ông chất chứa một nỗi buồn man mác, đó là nỗi buồn của người trí thức luôn đau đáu một nỗi niềm trước thời thế loạn lạc. "Tràng giang" được coi là bài thơ tiêu biểu nhất cho tài năng và phong cách sáng tác ấy. Đặc biệt, trong 2 khổ thơ cuối của bài, nhà thơ đã tái hiện đầy khắc khoải nỗi buồn thương, sầu não của một con người đang cảm thấy lạc lõng, cô độc giữa cuộc đời rộng lớn.
Nếu như những khổ thơ đầu, nhà thơ Huy Cận tập trung miêu tả khung cảnh sông nước, mây trời rộng lớn, rợn ngợp thì ở hai khổ thơ cuối, nhà thơ đã trực tiếp bộc lộ tâm trạng phiền não và những suy nghĩ sâu sắc về cuộc đời, về kiếp người:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Hình ảnh "bèo dạt" không chỉ mang ý nghĩa tả thực về cảnh vật mà nhà thơ bắt gặp trên sông mà còn gợi ra sự nhỏ bé, trôi nổi lênh đênh của những kiếp người giữa cuộc đời rộng lớn. Sông nước mênh mông, rộng lớn nhưng buồn vắng đến cùng cực "Mênh mông không một chuyến đò ngang", dù cố gắng tìm kiếm nhưng nhà thơ không tìm thấy dù một "chút niềm thân mật". Câu thơ "Không cầu gợi chút niềm thân mật" tựa như một tiếng thở dài đầy bất lực của nhà thơ khi chẳng thể tìm kiếm được một chút hơi ấm của con người, của sự sống. Điệp từ "không" đã cực tả sự vắng lặng của không gian, nó phủ định tất cả những gì gắn kết giữa con người và thiên nhiên sông nước, không có con đò, không cầu, không chút niềm thân mật. Tất cả mở ra trước mắt của nhà thơ chỉ có sự rộng lớn, hoang vắng đến rợn ngợp.