"Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước"
Đó là những câu thơ trong thi phẩm "Đất nước" của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Quả thực, soi chiếu vào chặng đường phát triển của văn học Việt Nam, có biết bao tác phẩm đã viết về những người anh hùng lịch sử đã ghi danh với núi sông, được nhân dân nhớ ơn và ngưỡng mộ. Thế nhưng, đất nước thiêng liêng và yêu quý vô ngần của ta còn được xây dựng bởi bàn tay của biết bao con người "Không ai nhớ mặt đặt tên". Nhà văn Kim Lân - "nhà văn của những kiếp người bé mọn" đã đưa những con người "Giản dị và bình tâm" ấy vào trong trang sách, khiến hình ảnh người nông dân ở làng quê Việt trở thành tượng đài rực rỡ về lòng yêu nước. Điều này được thể hiện rất rõ qua nhân vật ông Hai trong truyện ngắn "Làng".
Nhà văn Kim Lân là một cây bút chuyên viết truyện ngắn. Có sở trường ở thể loại mà qua một lát cắt, có thể nhìn thấy "vòng đời thảo mộc cả trăm năm", Kim Lân cũng chủ trương viết bằng những trải nghiệm thực tế, chỉ viết những gì mình biết và mình thuộc. Chính vì vậy, nhà văn thường viết về đời sống của những người dân quê mà ông gắn bó. Tác phẩm "Làng" được viết vào giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, đăng lần đầu năm 1948. Tác phẩm kể về ông Hai - một người nông dân yêu làng, yêu nước nhưng bất ngờ nghe tin làng theo giặc. Tác giả đã đặt nhân vật vào tình huống gay cấn để khai thác nội tâm. Vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của nhân vật này được thể hiện chân thực, đặc sắc qua từng chặng của quá trình đấu tranh, xung đột nội tâm gay gắt.
Ngay ở phần đầu tác phẩm, ta tìm thấy ở nhân vật ông Hai tình yêu làng tha thiết, sâu nặng. Ấy là ông hay khoe, hay kể về làng Chợ Dầu. Trước Cách mạng, ông hãnh diện về "những nhà ngói san sát, những đường làng toàn lát đá xanh, trời mưa, trời gió bùn không dính đến gót chân" của làng. Ông còn vui vẻ khoe cái cái sinh phần to lớn của viên tổng đốc dù để xây dựng cái sinh phần hoành tráng đó, rất nhiều người phải phục dịch. Thậm chí, bản thân ông Hai cũng từng bị gạch đổ vào chân nên phải đi tập tễnh. Đó là bằng chứng cho thấy sự bóc lột, áp bức nặng nề của bè lũ thống trị và cuộc sống tắm tối của nhân dân. Tuy vậy, nhìn chung thì cách ông yêu làng vẫn thật giản dị, hồn hậu, đáng trọng biết bao nhiêu. Nó mang đậm nét tâm lí nông dân, rất mộc mạc, tử tế. Khi đã có Cách mạng, ông chuyển sang tự hào về phong trào cách mạng sôi nổi, những buổi tập quân sự, những buổi đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá hay những buổi hát hỏng, bông phèng cùng anh em. Cái "phòng thông tin tuyên truyền rộng rãi", "chòi phát thanh cao" cũng khiến ông Hai lấy làm hãnh diện lắm! Quả thực, trong mắt ông, điều gì thuộc về làng Chợ Dầu cũng đáng yêu, đáng quý cả! Ở đây, ta có thể thấy tình yêu làng của ông đã có một quá trình phát triển, từ tình yêu thuần nhất với ngôi làng trở thành tình cảm với đất nước, cách mạng.
Khi phải đi tản cư theo lệnh kháng chiến, ông Hai mang trong mình sự day dứt, trăn trở vì nhớ làng. Nỗi nhớ ấy chỉ nguôi ngoai khi đi làm, chứ lúc về nhà, hễ nằm xuống giường, vắt tay lên trán, hình ảnh ngôi làng lại khiến ông thương nhớ. Dù xa cách nhưng ông vẫn chăm chỉ nghe ngóng tin tức kháng chiến, hỏi thăm về làng. Câu văn "Chao ôi ! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá" là tiếng lòng bộc bạch của ông. Lời cảm thán kết hợp với nhịp văn được ngắt thành nhiều vế cùng điệp từ "nhớ", "làng" được lặp lại trong cùng một câu văn đã thể hiện sâu sắc nỗi nhớ nhung trong tâm hồn nhân vật. Ngôi làng nhỏ bé là nguồn cội, là linh hồn, lẽ sống của cuộc đời ông. Tâm trạng ấy của ông Hai không phải là nỗi niềm riêng cá biệt mà là cảm xúc chung của bất cứ người nông dân nào khi phải rời xa nơi chôn rau cắt rốn để sống với thân phận của một dân ngụ cư.
Vẻ đẹp tâm hồn của ông Hai còn nằm ở diễn biến tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng theo giặc. Khi chia sẻ về tác phẩm, Kim Lân từng nói: "Lão Hai chính là tôi. Viết đi viết lại hình như cuối cùng câu chuyện chính là mình." Nhà văn không bao giờ ra khỏi địa phận chân thực của mình viết về nên tất cả những cung bậc cảm xúc của nhân vật đều được miêu tả rất sinh động, tinh tế và sâu sắc. Đây quả là một tình cảnh éo le, khiến nhân vật phải giằng co, đấu tranh tâm lí từ đó bộc lộ rõ phẩm chất, tính cách.
Trước khi nghe tin làng mình theo giặc, ông Hai biết được bao nhiêu tin vui về cách mạng. Nào là một em nhỏ đã dũng cảm bơi ra hồ Hoàn Kiếm cắm quốc kì lên Tháp Rùa, nào là anh chiến sĩ giết được bảy tên giặc rồi tự sát bằng quả lựu đạn cuối cùng, nào là đội nữ dân quân Trưng Trắc đã giả dạng người mua hàng bắt sống một tên quan hai bốt Thao,... Ông Hai tự hào, phấn khởi bởi lòng yêu nước, tinh thần quả cảm, sự mưu trí, anh dũng của nhân dân ta. Không phân biệt già trẻ, gái trái, tất cả đồng bào đều cùng nhau chiến đấu. Những nhân vật ấy không được Kim Lân đặt tên bởi họ không tiêu biểu cho tài năng, tấm lòng của một cá nhân mà đại diện cho tinh thần của cả một dân tộc, một thời đại. Những chiến công hiển hách của quân ta khiến ông Hai vui sướng quá đỗi, "ruột gan ông lão cứ múa cả lên". Chắc hẳn ông cũng mong chờ những tin tức như vậy từ làng Chợ Dầu.
Khi nghe tin làng theo giặc, ban đầu, ông Hai bàng hoàng, sửng sốt. Cú sốc bất ngờ và đau đớn khiến “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được”. Càng yêu làng, tin tưởng vào làng thì ông lại càng đau xót. Còn gì đau đớn hơn khi lẽ sống của mình sụp đổ? Ông lão như rơi xuống hố sâu của nỗi tủi nhục, bẽ bàng. Ông cố bình tâm để xác minh tin tức: “Liệu có thật không hở bác? Hay là chỉ lại…”. Sự ngập ngừng thể hiện qua dấu ba chấm cho thấy ông niềm âu lo phấp phỏng cùng thoáng hi vọng mong manh. Ông ước ao đó chỉ là tin thất thiệt về làng... Nhưng người đàn bà “vừa ở dưới ấy lên” đã kể ra những dẫn chứng về sự phản bội của làng Chợ Dầu. Mỗi chi tiết bà ta kể là mỗi vết dao sâu hoắm găm vào trái tim ông. Giặc vào làng, cả làng vác cờ ra hân hoan. Thằng chánh Bệu còn khuân cả tủ chè, đỉnh đồng, vải vóc lên xe cam-nhông, rồi lại đưa cả vợ con đi với giặc ở ngoài tỉnh. Ông Hai không thể không tin. Cố gắng giấu niềm chua xót, ông đành lảng đi: “Hà, nắng gớm, về nào…”. Nỗi xấu hổ khôn cùng khiến người nông dân ấy “cúi gằm xuống mặt mà đi”. Còn niềm đau nào hơn là người của cái làng “giống Việt gian bán nước”? Thậm chí, những kẻ ăn cắp, ăn trộm vì đói khổ còn đáng thương, đáng được tha thứ và thấu hiểu hơn những kẻ phản bội lại Tổ quốc, đồng bào, phản bội nòi giống và tổ tiên để đi theo giặc giã.
Về đến nhà, ông Hai “nằm vật xuống giường”. Gương mặt mới hồi nào hồ hởi nay đã chẳng còn chút sinh khí. Ông đau đớn, tủi thân khi nhìn bọn trẻ con đang chơi với nhau ông. Tương lai nào cho các con ông khi chúng là trẻ con làng Việt gian? Rồi mai đây, chúng sẽ bị người ta hắt hủi. Nước mắt ông lão cứ giàn ra. Thế rồi, ông Hai căm giận đến tột cùng, lên tiếng chửi bọn người làng Chợ Dầu: “Chúng bay ăn miếng cơm hay ăn miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Không phải niềm vui hay những lời tự hào, ở đây, những giọt nước mắt và sự tức giận của ông Hai cũng cho thấy tình yêu của ông với làng, với đất nước. Có yêu quý, hi vọng thì ông mới tức giận đến trào nước mắt. Đó không phải là tình yêu mộc mạc như ban đầu mà là một tình yêu tỉnh táo, lí trí, đặt vận mệnh đất nước lên trên. Trong lòng ông Hai diễn ra một cuộc xung đột nội tâm gay gắt. Một mặt, ông cố thuyết phục mình không tin vào cái tin dữ kia. Ông nhớ lại từng người một rồi tự lẩm bẩm: “ họ toàn là những người có tinh thần cả. Họ đã ở lại làng, quyết tâm một sống một chết với giặc, có đời nào lại cam tâm làm điều nhục nhã ấy”!. Mặt khác, ông lại nghi ngờ chính mình: “Không có lửa làm sao có khói? Ai người ta hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì”. Câu nói “Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian”! được ngắt ra thành các câu văn ngắn với dấu “!” thể hiện sự phẫn uất và bất lực của ông Hai. Thế rồi, từ bẽ bàng, đau đớn, ngờ vực đến phẫn nộ, tâm trạng ông Hai chuyển sang sự lo lắng. Ông quan ngại cho cuộc sống của mình và những người làng đi tản cư: “Rồi đây biết làm ăn, buôn bán ra sao?”. Không khoa trương cầu kì, cũng không đưa ra bất kì tuyên ngôn nào, Kim Lân vẫn thể hiện trọn vẹn nỗi khổ tâm nhân vật bằng lối viết chân xác, giản dị. Ta vốn đã quen với những trang viết hùng hồn, những lời văn hùng tráng và lôi cuốn khi viết về lòng yêu nước, nay lại cảm động thấm thía trước nỗi niềm của một người nông dân nhỏ bé khi hay tin làng theo giặc. Bầu không khí nặng nề bao trùm nhà ông Hai tối hôm đó. Ông không sao ngủ được, trở mình hết bên này đến bên kia. Nghe tiếng mụ chủ nhà, trống ngực ông đập thình thịch, chân tay nhủn ra. Nỗi đau xót, tuyệt vọng đã ghì chặt lấy ông.
Tâm trạng ám ảnh của ông Hai còn được thể hiện xuyên suốt ba bốn ngày sau. Cả ngày ông Hai chỉ quanh quẩn trong nhà, nghe ngóng xem tình hình. Lúc nào ông cũng nơm nớp lo sợ mọi người xung quanh đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Cứ thoáng nghe tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông, ông lại lủi vào một góc nhà mà nín thít. “Thôi, lại chuyện ấy rồi.”
Đỉnh điểm của sự căng thẳng, tuyệt vọng nằm ở việc mụ chủ nhà muốn đuổi ông đi. Khi ấy, ông Hai có 2 con đường: một là thuê nhà ở nơi khác, hai là trở về làng Chợ Dầu. Nhân vật đứng giữa hai ngã rẽ, buộc phải đấu tranh để đưa ra quyết định. Kim Lân đã rất tài tình khi xây dựng tình huống truyện đặc sắc này, từ đó thể hiện rõ phẩm chất nhân vật. Nếu ông đi nơi khác thì sợ rằng không ai chứa chấp nhưng về làng tức là phản bội lại cụ Hồ, kháng chiến. Thân phận con người hóa thành bơ vơ, lạc lõng. Mâu thuẫn của ông Hai là mâu thuẫn giữa niềm tự hào, tình yêu làng thuần hậu và nỗi ô nhục vì làng phản bội theo Tây. Cuối cùng, nhân vật đã đưa ra lựa chọn: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây rồi thì phải thù”. Chi tiết này thật cảm động! Nó cho thấy con người đã ý thức được về tình yêu nước, sự kiên trung với cách mạng. Quá trình phát triển tâm lí của nhân vật với những thay đổi, xung đột quyết liệt được nhà văn miêu tả rất tinh tế và thuyết phục. Dù đã đưa ra lựa chọn, ông Hai vẫn không thể dứt bỏ nghĩa tình với làng. Thậm chí, ông càng day dứt và nhớ làng hơn. Không biết gửi nỗi tâm sư vào đâu, ông đành tâm sự với đứa con nhỏ cho vơi bớt đi nỗi đau khổ của mình.
- Thế nhà con ở đâu?
- Nhà ta ở làng Chợ Dầu.
- Thế con có thích về làng Chợ Dầu không?
- Có
………
- Thế con ủng hộ ai?
- Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm.
Đoạn đối thoại giản đơn nhưng thật cảm động! Ông Hai vẫn luôn dành cho ngôi làng một vị trí trang trọng trong trái tim, ông giáo dục con dù ở nơi đâu cũng luôn nhớ về “nhà”. Nhà văn Ê - li - a Ê - ren -bua đã viết: “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”. Đọc “Làng”, ta càng thấm thía câu nói ấy. Ông Hai yêu làng, nhớ về làng, hay khoe làng cũng chính là yêu đất nước vì ngôi làng của ông chính là một phần máu thịt của Tổ quốc. Giờ đây, tình yêu ấy càng lớn hơn khi được bổ sung thêm khía cạnh thủy chung với cách mạng, kháng chiến. Ông muốn con ông biết “Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm”. “Cái tấm lòng của bố con ông là như thế, chết thì chết không bao giờ dám đơn sai.” Đây chính là lời thề sâu nặng, thiêng liêng của người dân dành cho Tổ quốc. Lời thề ấy không được khắc ghi trên đá hay thốt ra trước cảnh núi sông hùng vĩ mà được thốt lên trong tâm can của ông, trong khung cảnh đơn sơ, nghèo khó của làng quê Việt. Thân thương và đáng trọng biết nhường nào!
Như vậy, ta có thể thấy sự giằng xé nội tâm của ông Hai từ khi nghe tin làng theo giặc. Cuộc đấu tranh nội tâm đi từ chỗ bất ngờ, choáng váng đến đau xót, nhục nhã, tủi hờn, căm tức rồi ám ảnh, sợ hãi đến cùng cực. Lựa chọn cuối cùng của ông đã nói lên tình yêu làng, yêu nước, tình cảm thủy chung son sắt với cách mạng, kháng chiến của người nông dân. Ông Hai là hình ảnh đại diện cho vẻ đẹp của người nông dân VN trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Khi nghe tin làng được cải chính, tâm trạng của ông Hai hoàn toàn thay đổi. “Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”, “Mồm bỏm bẻm nhai trầu”, “Cặp mắt hung hung đỏ hấp háy”. Nhà văn sử dụng một loạt các từ láy để diễn tả niềm vui, sức sống dâng trào của ông lão. Niềm vui ấy còn được thể hiện bằng các hành động như phấn khởi mua quà cho các con, đem khoe tin làng với tất cả mọi người: "Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi vừa lên cải chính.... Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả". Nghe tin nhà mình bị Tây đốt, ông cũng lấy làm tự hào. Điều này có vẻ trái với quy luật thông thường nhưng lại phù hợp với dòng diễn biến tâm trạng của nhân vật. “Tây nó đốt nhà tôi” chứng tỏ “tôi” không hề theo giặc. Mái nhà là tổ ấm, là tài sản cá nhân quý giá nhưng ta sẵn sàng hi sinh tất cả khi Tổ quốc cần. Tình yêu làng của ông còn được tô đậm hơn nữa khi qua câu chuyện ông kể ở nhà bác Thứ tối hôm ấy. Giặc có bao nhiêu thằng, đốt phá những đâu đâu, dân quân tự vệ làng ông đã chống cự ra sao. Ông kể rành rọt, tỉ mỉ như chính ông vừa tham dự trận đánh ấy. Mọi người xung quanh, ai ai cũng vui mừng cho ông, đến cả bà chủ nhà cũng đon đả. Tình yêu nước là chất keo kết dính con người, tạo ra sự đoàn kết trong cộng đồng.
Những nhân vật như ông Hai, bố con ông gác máy bay trên núi Côi Kê,…chính là đại diện cho tình yêu nước, tinh thần trách nhiệm, lòng tự tôn dân tộc, sự đôn hậu thủy chung ở người nông dân Việt Nam. Hình ảnh những con người chân lấm tay bùn đi vào trang sách thật hiên ngang. Tài năng của Kim Lân khiến người đọc ngạc nhiên như chính nhà văn Nguyễn Khải đã nhận xét khi đọc “Làng”: “Đó là thần viết, thần mượn tay người để viết nên những trang sách bất hủ”
Như vậy, qua những hành động và quá trình diễn biến tâm lí, ta có thể thấy nhân vật ông Hai mang những phẩm chất đáng quý: giản dị, chất phác, có tình yêu làng quê và đất nước sâu nặng, một lòng son sắt thủy chung với cách mạng, có tinh thần kháng chiến mãnh liệt, sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc. Qua đó, nhà văn bày tỏ thái độ trân trọng, ngợi ca đối với người nông dân Việt Nam
Để xây dựng thành công nhân vật ông Hai, tác giả Kim Lân đã sử dụng tài hoa nghệ thuật xây dựng nhân vật chân thực, nghệ thuật miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật sâu sắc, tinh tế, cách xây dựng tình huống truyện hấp dẫn và tạo dựng chi tiết đặc sắc cùng nghệ thuật kể chuyện chân thực, ngôn ngữ nhân vật vừa mang những nét chung của con người nông thôn miền Bắc vừa thể hiện được tính cách riêng.
Nhân vật ông Hai cùng tình yêu làng “thoát kén hóa đẹp xinh” thật đáng yêu, đáng trọng! Nhân vật, tác phẩm cũng như tên tuổi của nhà văn Kim Lân - nhà văn của “thuần hậu nguyên thủy” sẽ mãi có một vị trí trang trọng trong lòng người đọc