Trong số những người thầy giáo đứng trên bục giảng, có không ít người đã từng khoác áo lính, đã kinh qua khói lửa của chiến tranh. Tuổi thanh niên phơi phới của họ đã gửi lại nơi chiến trường với cây súng trong tay để giữ vững hoà bình độc lập cho dân tộc, và khi trở lại với cuộc sống đời thường, bàn tay ấy lại cầm phấn viết nên những nét chữ thân thương để dìu dắt các thế hệ học sinh. Và không ít những người thầy giáo - người lính, đã gửi lại một phần thân thể của họ nơi khói lửa chiến tranh, để vĩnh viễn in những vết chân tròn trên những nơi mà họ đi qua, những vết chân tròn để lại trong lòng chúng ta những ám ảnh sâu sắc về tình thầy. Cậu bé thần đồng thơ Trần Đăng Khoa đã từng xúc động như thế trước bàn chân thầy giáo.
Bài thơ đọng lại trong ta những cảm xúc nghẹn ngào, những dấu hỏi xoáy sâu vào tâm linh như những băn khoăn trẻ thơ không thể nào lí giải: Một bàn chân của thầy đâu rồi?
Nỗi băn khoăn và suy nghĩ của học trò thật hồn nhiên, thơ ngây. Nhưng hình ảnh người thầy giáo ngồi cạnh đôi nạng gỗ giảng bài cho học sinh thì thật xúc động. Đó là hình ảnh chân thực như chính bộ mặt trần trụi, khốc liệt mà chiến tranh đã in dấu vĩnh viễn trên cơ thể của người thầy, nhưng đồng thời đó cũng là hình ảnh thật đẹp của tấm lòng của người thầy giáo- chiến sĩ đã cống hiến cho quê hương, vì đàn em.
Trong kí ức của những người trò nhỏ vẫn còn hằn in rất rõ ấn tượng về buổi sáng mà mái trường bị bom Mỹ trút xuống tàn phá, ấn tượng về những ngổn ngang, lỗ chỗ vết bom bi có lẽ còn mãi ám ảnh tâm hồn trẻ thơ trong sáng như một nỗi kinh hoàng. Và, trên cái nền đổ nát đó là hình ảnh thầy giáo em cầm súng ra đi, để lại đằng sau bài tập đọc còn dang dở cũng như những ước vọng khôn nguôi cháy lòng người ở lại. Người thầy giáo của trường làng đã như bao nhiêu người khác, xếp giáo án lên đường theo tiếng gọi của tổ quốc, một sự ra đi giản dị, tự nhiên như một hành động tất yếu nhưng lại hết sức cao cả, dũng cảm. Trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc của dân tộc, có biết bao nam nữ thanh niên sinh viên, giáo viên đã “xếp bút nghiên lên đường
Có chút gì nghèn nghẹn ở những câu thơ này. Cái nghẹn ngào xúc động bởi sự đối lập giữa vẹn nguyên nụ cười và cái khiếm khuyết của cơ thể. Thầy giáo trở về, vẫn vẹn nguyên là thầy thủa trước với nụ cười hiền hậu, thân thuộc, dẫu chiến tranh đã vĩnh viễn cướp đi của thầy một bàn chân. Có cái gì đó xa xót, mằn mặn trong câu thơ chở nặng tình thương của những người học trò trước mất mát không gì khỏa lấp.
Hình ảnh những vết chân tròn in dấu lên cổng trường những chiều giá buốt, những đêm mưa dầm thật cảm động. Bỗng nhiên vang lên đâu đây giai điệu bài hát Vết chân tròn trên cát của nhạc sỹ Trần Tiến.Anh thương binh vẫn đến trường làngDấu chân tròn ấy là chứng tích của những mất mát, hi sinh trên chiến trường đạn bom khói lửa cũng là hiện thân cho tấm lòng yêu nghề, yêu trẻ của thầy.
Những suy tư trong câu thơ của cậu bé Khoa nhỏ tuổi khiến chúng ta chợt giật mình thảng thốt. Khiếm khuyết trên một phần thân thể của thầy và cái chưa hoàn hảo của đời ta có liên hệ gì không mà sao lại day dứt, ám ảnh đến vậy? Những câu thơ bao chứa cả một trời yêu thương và cảm phục của cậu trò nhỏ Trần Đăng Khoa, cũng là tiếng lòng đồng cảm của người đọc xin cúi mình trước sự hi sinh và cống hiến của những người thầy giáo đã từng khoác áo lính. Tâm hồn, tấm lòng người thầy chính là tấm gương sáng trong cho ta soi mình vào đó, nhìn nhận lại mình, tự thanh lọc tâm hồn để sống tốt hơn, hoàn thiện hơn.
Hình ảnh bàn chân của thầy cứ trở đi trở lại trong những suy nghĩ miên man. Như hiện ra sống động, rờ rỡ trước mắt trẻ thơ là chiến trường đạn bom khói lửa và hình ảnh người thầy hiên ngang, can trường với bàn chân đạp xuống đầu lũ giặc, bàn chân đi đánh Mỹ, bàn chân xông pha trận mạc làm nên lịch sử.
Không những thế, bàn chân của thầy còn dìu em đi suốt chiều dài yêu thương, chiều sâu đất nước. Bàn chân của thầy, bàn chân đã gửi lại trên chiến trường xa xôi, bàn chân để lại vết thương nhức nhối mỗi khi trái gió trở trời, bàn chân không còn hiện hữu… nhưng lại đem đến cho lũ học trò bao bài học làm người, bài học về yêu thương, bài học về lòng dũng cảm, bài học về đức hi sinh…
Sự đối lập giữa cái đã mất và cái trọn vẹn trong hai câu cuối của bài thơ đã đọng lại những cảm xúc ấm nồng và tạo nên sức ám ảnh của bài thơ. Kì diệu thay, đôi bàn chân của thầy, đôi bàn chân đã mất nhưng vẫn dẫn chúng em đi trọn vẹn cuộc đời. Bởi:
Trần Đăng Khoa, với tấm lòng kính yêu, cảm phục, biết ơn chân thành đối với thầy giáo của mình đã khắc chạm chân dung người thầy - người lính với tấm lòng thuần hậu đầy vị tha và đức hi sinh cao cả. Dù trên chiến trường đầy đạn bom, hay trên bục giảng giữa mưa dầm gió bấc thì hình ảnh người thầy vẫn sáng lên tấm gương của sự tận tâm, tận tuỵ dìu dắt các thế hệ tương lai cập bến bờ tri thức và yêu thương. Bài thơ là tấm lòng biết ơn chân thành sâu nặng, mà Trần Đăng Khoa đã nói hộ chúng ta với những người thầy giáo, cô giáo đã hi sinh một đời cho ta những bài học làm người.