Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích vẻ đẹp của Vũ Nương trong "Chuyện Người Con Gái Nam Xương"

Phân tích vẻ đẹp của Vũ Nương trong "Chuyện Người Con Gái Nam Xương"
2 trả lời
Hỏi chi tiết
56
Tham khảo câu trả lời từ Trợ lý ảo Lazi
Trong truyện "Chuyện Người Con Gái Nam Xương", Vũ Nương được miêu tả là một người con gái xinh đẹp và quyến rũ. Vẻ đẹp của cô không chỉ nằm ở ngoại hình mà còn ở cách cô diễn đạt, cử chỉ và thái độ của mình.

Về ngoại hình, Vũ Nương được miêu tả là có gương mặt thanh tú, đôi mắt sáng, mũi cao và đôi môi hồng. Cô có mái tóc dài và đen như mực, tạo nên một vẻ đẹp tự nhiên và thuần khiết. Ngoại hình của Vũ Nương tạo nên một sự hài hòa và tinh tế, thu hút sự chú ý của mọi người xung quanh.

Ngoài ra, Vũ Nương còn có cử chỉ và thái độ tinh tế, duyên dáng. Cô di chuyển nhẹ nhàng, như một bông hoa trôi lượn trên mặt nước. Cách cô nói chuyện và cười cũng mang đến một sự dịu dàng và quyến rũ. Vũ Nương có khả năng giao tiếp tốt, biết cách thu hút và làm cho người khác cảm thấy thoải mái và hứng thú.

Tuy nhiên, vẻ đẹp của Vũ Nương không chỉ là bề ngoài mà còn là sự tinh tế và sâu sắc bên trong. Cô là một người con gái thông minh, có tư duy sắc bén và sự nhạy bén trong việc nhận biết và hiểu người khác. Vũ Nương có lòng nhân ái và sẵn lòng giúp đỡ người khác, tạo nên một vẻ đẹp tinh thần và lòng tốt.

Tóm lại, vẻ đẹp của Vũ Nương trong "Chuyện Người Con Gái Nam Xương" không chỉ nằm ở ngoại hình mà còn ở cách cô diễn đạt, cử chỉ và thái độ của mình. Vũ Nương là một người con gái xinh đẹp, duyên dáng và có tâm hồn tốt, tạo nên một vẻ đẹp toàn diện và cuốn hút.
1
0
Không rảnh
29/09/2023 19:07:25
+5đ tặng
Tác giả khắc họa vẻ đẹp tâm hồn Vũ Nương:
+Thùy mị nết na, tư dung xinh đẹp
+Cư xử đúng mực, nhường nhịn, luôn giữ gìn khuôn phép, không để vợ chồng dẫn đến bất hòa
+Khi chồng đi lính: dặn dò ân tình, thiết tha 
+Khi xa chồng: sinh và nuôi con, chăm sóc cho mẹ chồng chu đáo lúc ốm và ma chay chu tất khi mẹ chồng mất
+Khi bị nghi oan: nàng dùng lời lẽ chân thành, tha thiết để giải bày
=>Là 1 người vợ thủy chung, là 1 người con dâu hiếu thảo, dao dung, vị tha, nặng lòng với gia đình 

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
2
0
Kim Anh
29/09/2023 19:15:56
+4đ tặng

“Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương

Miếu ai như miếu vợ chàng Trương

Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ,

Cung nước chi cho lụy đến nàng.”

(Lê Thánh Tông)

Lấy cảm hứng từ câu chuyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, Nguyễn Dữ đã dùng ngòi bút nhân đạo của mình để viết lên “Chuyện người con gái Nam Xương” trong một hiện thực xã hội đương thời đầy bất công oan trái. Tác phẩm như tiếng nói mạnh mẽ tố cáo xã hội phong kiến bất công, nghiệt ngã đã gây ra bi kịch đau đớn, đồng thời là tiếng nói ca ngợi những phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Điều ấy được thể hiện sâu sắc qua nhân vật Vũ Nương.

Nguyễn Dữ là học trò xuất sắc của Tuyết Giang Phu Tử Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tác phẩm của ông không chỉ thể hiện tài năng, kiến thức uyên bác mà còn chất chứa những hoài bão nguyện vọng thầm kín về khát vọng hạnh phúc, sự công bằng trong cuộc sống. “Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong hai mươi truyện trích trong “Truyền kì mạn lục” - một “thiên cổ kì bút” ngàn đời, được viết từ cốt truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”.

Mở đầu tác phẩm, tác giả đặt nhân vật Vũ Nương vào những hoàn cảnh khác nhau để bộc lộ vẻ đẹp đời sống và tính cách nhân vật. Nguyễn Dữ đã giới thiệu “Vũ Thị Thiết người con gái quê ở Nam Xương, tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp”. Chỉ bằng một câu văn ngắn, Nguyễn Du đã khái quát một cách đầy đủ và trọn vẹn vẻ đẹp tâm hồn của Vũ Nương, ở nàng hội tụ đầy đủ cả công - dung - ngôn - hạnh. Chàng Trương cũng bởi mến cái dung hạnh ấy, nên mới xin với mẹ trăm lạng vào cưới về.

Không chỉ là một người phụ nữ xinh đẹp, nết na, đức hạnh, Vũ Nương còn là một người vợ yêu chồng, thủy chung với chồng và luôn khao khát hạnh phúc gia đình. Trong cuộc sống vợ chồng bình thường, nàng luôn giữ gìn khuôn phép dù chồng nàng đa nghi, phòng ngừa quá mức nhưng gia đình chưa từng xảy ra bất hoà. Cưới nhau chưa được bao lâu, Trương Sinh phải ra trận bởi chàng là con nhà hào phú nhưng thất học nên phải đi lính buổi đầu. Khi tiễn chồng đi, Vũ Nương rót chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời tình nghĩa đằm thắm: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi…”. Nàng vô cùng cảm thông và xót xa cho những nỗi gian lao, vất vả mà chồng sẽ phải chịu đựng chốn xa trường. Những lời nói của Vũ Nương khiến ta không khỏi rơi nước mắt, nghẹn ngào, xúc động.

Xa chồng là thế, nhưng nàng vẫn là người vợ hết mực chung thuỷ với chồng: “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết, tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”. Ngày qua tháng lại, thời gian thấm thoát thoi đưa, nàng nhớ chồng khôn nguôi, nỗi nhớ dài dằng dẵng không thể ngăn được. Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì lòng nàng dường như quặn thắt lại đầy xót xa.

Sau khi xa chồng vừa đầy tuần thì nàng hạ sinh một đứa con trai, đặt tên là Đản. Không chỉ là một người vợ thủy chung son sắt, nàng còn là một người mẹ hiền, hết lòng nuôi dạy con cái. Nàng hết lòng và tận tâm bù đắp cho đứa con trai sự thiếu vắng tình cha. Nàng đã chỉ cái bóng trên tường và bảo rằng đó là cha Đản, để con có thể cảm nhận hạnh phúc của một mái ấm gia đình.

Chính trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, đức tính hiếu thảo của Vũ Nương lại càng bộc lộ rõ hơn. Khi ấy, mẹ chồng cũng vì nhớ con trai mà sinh bệnh nặng. Nàng đã tận tình chăm sóc mẹ chồng già yếu, ốm đau. Nàng hết sức thuốc than lễ bế thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn, bởi yếu tố tâm linh đối với người xưa là rất quan trọng. Nhưng việc gì đến rồi cũng sẽ đến, bà mẹ không qua khỏi. Trước khi rời xa cõi đời, bà đã để lại lời trăng trối cuối cùng như một sự cảm tạ và ghi nhận công lao của Vũ Nương đối với gia đình: “Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, mà không gắng ăn miếng cơm miếng cháo đặng cùng vui sum họp…. Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Sự hiếu thảo của Vũ Nương với mẹ chính khiến ta nhớ đến nhân vật Thúy Kiều trong "Truyện Kiều” của Nguyễn Du, một cô gái sẵn sang bản thân mình để cứu cha và em. Những người phụ nữ ấy thật đáng để chúng ta tôn trọng và yêu thương.

Qua một năm sau, Trương Sinh đã được trở về nhà. Chàng hay tin mẹ đã qua đời, con vừa học nói. Bi kịch của Vũ Nương đã bắt đầu từ giây phút đứa con ngây thơ nói về người cha của mình, rằng đó là “một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”.

Nhưng trong sự oan ức ấy, nàng vẫn hiện lên rất cao cả, giàu lòng vị tha và trân trọng nhân phẩm, tình nghĩa. Khi bị Trương Sinh nghi oan, nàng đã tìm mọi cách để chồng hiểu cho tấm lòng thủy chung và trong sạch của mình. Nhưng thật đáng tiếc, Trương Sinh như đẩy nàng đến bước đường cùng khiến Vũ Nương mượn dòng nước Hoàng Giang để rửa nỗi oan nhục. Nàng đã phải chết oan ức nhưng nàng không hề oán trách, hận thù. Nghe chàng Phan - một anh chàng cùng làng kể về gia đình, về nhà cửa, nàng vẫn ứa nước mắt ra mà khóc, vẫn nặng lòng thương nhớ chồng con, nhớ nhung quê hương, vẫn quả quyết “ắt có ngày tìm về quê cũ”. Dù cuộc sống của nàng đã gắn liền với chốn cung nước, nàng vẫn khao khát được phục hồi danh dự, mong muốn chàng Trương lập dàn giải oan cho mình ở bến Hoàng Giang và nàng đã trở về trong lễ giải oan để nói lời tạ từ. Cuộc đời Vũ Nương tuy ngắn ngủi nhưng nàng đã làm tròn bổn phận của người phụ nữ người vợ thủy chung, một người mẹ thương con, một người con dâu hiếu thảo. Ở bất kỳ cương vị nào, nàng cũng làm rất hoàn hảo.

Một người phụ nữ như Vũ Nương đáng lẽ phải được hưởng một cuộc sống hạnh phúc, ấm êm như các cách nàng đã vun vén và khao khát, nhưng nàng lại chịu đựng một số phận bất hạnh, một nạn nhân của bi kịch, của hạnh phúc gia đình tan vỡ và quyền sống bị chà đạp.

Trước hết, nàng là nạn nhân của xã hội phong kiến khi lấy phải người chồng đa nghi, hay ghen, cuộc hôn nhân ấy như một sự báo hiệu về những sóng gió trong cuộc sống của nàng sau này. Không chỉ vậy, nàng còn là nạn nhân của xã hội phong kiến phi nghĩa. Nàng lấy chồng chưa được bao lâu thì chiến tranh phong kiến đã chia cắt tổ ấm hạnh phúc của nàng. Một mình nàng gánh vác mọi công việc gia đình, vừa là một người mẹ hiền, vừa là một người con thảo. Xã hội với những hủ tục phong kiến lạc hậu, hà khắc ấy cũng đã khiến nàng mang tiếng là “thất tiết” và đẩy nàng đến đường cùng, điều đó chính là nguyên nhân cho cái chết của Vũ Nương.

Nhưng bi kịch lớn nhất của đời nàng là khi Trương Sinh trở về, chỉ vì câu nói vô tình của con nhỏ mà chồng đã nghi ngờ và khẳng định nàng thất tiết, lăng nhăng. Nàng có biện bạch, thanh minh bao nhiêu, hàng xóm nói giúp nàng đi chăng nữa, Trương Sinh vẫn bỏ ngoài tai và ghen tuông một cách mù quáng, hắn "lấy lời nói bóng gió này nọ mà mắng nhiếc nàng, rồi đánh đuổi đi".

Đến mức này, Vũ Nương đã quá đau khổ, thanh minh rằng: "Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp.” Thật đau khổ và tủi nhục biết bao! Nàng không hiểu vì sao mình lại bị đối xử tàn nhẫn, bất công như vậy. Giờ đây “...bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa”. Người vợ chờ chồng đằng đẵng suốt cả năm trời mà lại bị phủi phui hết những công lao và tình nghĩa thì cuộc đời còn gì ý nghĩa nữa đối với nàng Vũ Nương ấy?

Chính sự đa nghi và hồ đồ của Trương Sinh đã dồn nàng đến bi kịch đau đớn nhất cuộc đời: đó chính là cái chết oan nghiệt. Nàng đã tắm gội chay sạch, chạy ra bến Hoàng Giang và than với trời đất: "Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ". Và rồi, nàng gieo mình xuống dòng sông trong nỗi tuyệt vọng đắng cay.

Tất cả những tấn bi kịch của Vũ Nương như một lời tố cáo xã hội phong kiến, một xã hội xem trọng quyền uy của kẻ giàu và người đàn ông, đồng thời bày tỏ niềm cảm thương của tác giả đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ.

Như vậy, bằng nghệ thuật xây dựng tình huống truyện, miêu tả nhân vật , kết hợp hài hòa giữa tự sự và trữ tình, “Chuyện người con gái Nam Xương” đã giúp người đọc cảm nhận được những nét đẹp tâm hồn ở nhân vật Vũ Nương, vừa là một người vợ thủy chung, vừa một người mẹ thương con và một người con dâu hiếu thảo.

Qua đó, Nguyễn Dữ muốn gửi gắm sự ngợi ca, trân trọng đối với những người phụ nữ trong xã hội xưa. Quả thật, ngòi bút của ông chứa chan cái tâm cái tài của một nghệ sĩ lớn. Thời gian vẫn cứ trôi đi nhưng những trang viết của Nguyễn Dữ “nằm ngoài sự băng hoại của thời gian”, khẳng định được chỗ đứng của mình trong kho tàng văn chương dân tộc.

Phân tích vẻ đẹp và số phận bi kịch của Vũ Nương - Mẫu 2

Phũ phàng chi bấy hóa công

Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”

(Truyện Kiều - Nguyễn Du)

Trên chặng đường phát triển của văn hoc trung đại Việt Nam, ta bắt gặp không ít tác phẩm viết về nỗi niềm của người phụ nữ. Từ nỗi nhớ da diết, khắc khoải của người chinh phụ trong “Chinh phụ ngâm” tới niềm cô đơn, cay đắng của người cung nữ trong “Cung oán ngâm khúc”. Đến với thể loại truyền kì, tác phẩm tiêu biểu nhất viết về số phận người phụ nữ chính là “Người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ.

Nguyễn Dữ sinh ra vào cuối thế kỉ XV và sáng tác chủ yếu ở đầu thế kỉ XVI. Có thời gian dài sống ở kinh đô nên ông được chứng kiến nhiều thăng trầm của xã hội, con người. Ông đã chọn truyện truyền kì – một thể loại văn xuôi kết hợp giữa hiện thực và kì ảo để phản ánh hiện thực đời sống, gửi gắm những tư tưởng nhân sinh của mình. Tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” có nguồn gốc từ truyện dân gian “Vợ chàng Trương”, thuộc thiên thứ 16 của tập truyện “Truyền kì mạn lục”. Nhân vật chính là Vũ Nương được Nguyễn Dữ khắc họa đầy đủ cả về vẻ đẹp và số phận, tiêu biểu cho hình ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Nguyễn Dữ đã đứng trên quan điểm nhân đạo để ngợi ca, đề cao những vẻ đẹp ở người phụ nữ, nhất là những người phụ nữ bình dân. Nhân vật Vũ Nương mang trong mình cả vẻ đẹp ngoại hình và phẩm chất vô cùng đáng quý. Nguyễn Dữ không dành quá nhiều câu chữ để tả chân dung Vũ Nương nhưng chỉ qua chi tiết nàng có “tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp” và Trương Sinh “xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về”, người đọc vẫn có thể thấy rõ Vũ Nương là một người phụ nữ rất xinh đẹp. Ở nàng toát lên vẻ đằm thắm, hiền hậu của một người phụ nữ nơi thôn dã.

Đi liền với một dung mạo đẹp, Vũ Nương còn có những phẩm chất vô cùng đáng quý. Nhà văn đã đặt Vũ Nương vào những tình huống cụ thể để làm nổi bật tính cách, tâm hồn của nhân vật. Trong xã hội phong kiến, “Công – dung – ngôn – hạnh” được coi là thước đo chuẩn mực cho cốt cách của người phụ nữ. Vũ Nương mang trong mình đầy đủ những yếu tố ấy. Trong mối quan hệ vợ chồng, nàng là người vợ khéo léo, nhu mì, yêu thương chồng và thủy chung hết mực. Biết Trương Sinh có tính hay ghen, nàng luôn “giữ gìn khuôn phép” nên gia đình được yên ấm, chưa từng phải thất hòa. Hành động của Vũ Nương khi tiễn chồng đi lính đã cho thấy niềm khao khát hạnh phúc, tình yêu chân thành, tấm lòng nhân hậu mà Vũ Nương dành cho chồng. Người xưa có câu: “Một người làm quan, trăm họ được nhờ” nên ở xã hội xưa, có rất nhiều người coi việc tham gia chiến tranh là một cơ hội để đổi đời, thăng quan tiến chức. Ta đã từng bắt gặp trong “Chinh phụ ngâm” hình ảnh người vợ tiễn chồng ra trận với hi vọng đem về phú quý:

Chí làm trai dặm nghìn da ngựa

Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao

Giã nhà đeo bức chiến bào

Thét roi cầu Vị, ào ào gió thu.

Nhưng ở đây, Vũ Nương không cầu mong vinh hiển. Nàng đã rót chén rượu đầy, dặn dò chồng bằng những lời tha thiết, cảm thông với nỗi vất vả của chồng, mong chàng trở về bình an. Trong những ngày Trương Sinh chiến đấu nơi sa trường, nàng càng bộc lộ là một người thủy chung, yêu chồng hết mực. Mỗi khi thấy “bướm lượn đầy vườn”, “mùa xuân mây che kín núi”, nàng lại chạnh lòng thương nhớ chồng.

Trong mối quan hệ với mẹ chồng và con cái, Vũ Nương còn là dâu thảo, mẹ hiền. Mẹ chồng già yếu, đổ bệnh nên nàng hết sức thuốc thang, thường xuyên lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn. Khi bà mất, nàng lo tang ma chu đáo, hiếu nghĩa tròn đầy. Mối quan hệ giữa mẹ chồng nàng dâu tưởng như mang tính chất ràng buộc, hiếm khi hòa thuận. Thế nhưng những lời trăng trối cuối cùng của mẹ chồng đã khẳng định công lao của Vũ Nương với gia đình chồng. Không chỉ vậy, khi là một người mẹ, Vũ Nương cũng hết sức thương con. Nàng một mình nuôi dạy con, chăm sóc nhà cửa. Nàng đã trỏ bóng mình trên tường và nói đó là người cha để an ủi, dỗ dành bé Đản khi thấy con trông ngóng cha. Qua những chi tiết trên, ta thấy Nguyễn Dữ đã dành cho nàng thái độ trân trọng, ngợi ca hết mực. Vũ Nương thực sư là người xinh đẹp, nết na, hiền hậu, đảm đang, có tấm lòng nhân hậu, hết mực yêu thương gia đình.

Với những nét đẹp trên, những tưởng Vũ Nương sẽ có một cuộc đời yên ấm, hạnh phuc nhưng ngờ đâu, số phận nàng lại là chuỗi ngày tăm tối, bi kịch. Vũ Nương vừa là nạn nhân của chiến tranh phong kiến phi nghĩa vừa là nạn nhân của chế độ nam quyền. Vũ Nương sống vào thời kì đất nước loạn lạc, chiến tranh nổ ra liên miên, đời sống nhân dân cơ cực. Hoàn cảnh đất nước, thời đại chính là một phần nguyên nhân đem đến bất hạnh cho Vũ Nương, khiến vợ chồng chia lìa và đẩy nàng đến bi kịch về sau.

Không chỉ vậy, việc xuất thân là “con kẻ khó” còn khiến nàng bị mua bán như một món hàng qua “trăm lạng vàng”. Dẫu nàng có dịu dàng, đôn hậu đến bao nhiêu để thì trong gia đình vẫn ngầm tồn tại sự phân biệt giai cấp, trọng nam khinh nữ. Chế độ nam quyền đã sản sinh ra những người đàn ông gia trưởng, bảo thủ như Trương Sinh và trói buộc người phụ nữ vào cái khuôn “Tam tòng tứ đức”. Trước cơn thịnh nộ của Trương Sinh, Vũ Nương không thể phản kháng. Khi Trương Sinh trở về nghi ngờ nàng thất tiết nàng chỉ có thể khóc và thanh minh bằng những lời lẽ tha thiết, dịu dàng, nhắc nhở đến tình nghĩa vợ chồng. Vũ Nương chỉ biết chờ mong chồng hiểu cho tấm lòng của mình. Dẫu Trương Sinh có mắng nhiếc, đánh đuổi, không cho cơ hội giãi bày, nàng cũng không hề oán giận. Họ hàng, làng xóm đứng ra bảo vệ Vũ Nương vẫn không thể cứu vãn gia đình nàng khỏi nguy cơ tan vỡ. Cuối cùng, nàng đau đớn, tuyệt vọng, chỉ còn cách mượn tạm nước sông Hoàng Giang để chứng minh sự trong sạch. Nàng “tắm gội chay sạch” rồi ra bờ sông nói lời nguyện cầu mong thần linh chứng giám. Hành động này thể hiện cố gắng bảo vệ danh dự, tiết hạnh vô cùng mãnh liệt của Vũ Nương. Đối với nàng, lòng tự trọng là thứ quý giá còn hơn cả sinh mạng.

Tấm lòng son sắt của Vũ Nương còn được thể hiện vào sau khi nàng được Linh Phi cứu. Dù được sống cuộc đời an nhàn, bất tử nhưng lòng nàng lúc nào cũng hướng về quê hương, không nguôi mong nhớ về gia đình. Chi tiết nàng gặp lại Phan Lang dưới thủy cung và gửi chiếc thoa cho thấy tấm lòng vị tha, nhân hậu. Về sau, khi Trương Sinh đã tỉnh ngộ, Vũ Nương không một lời oán hận, trách móc: “Đa tạ tình chàng. Thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Lúc này, tất cả đã quá muộn màng. Nỗi oan khuất, đau khổ của Vũ Nương không phải là một số phận cá biệt mà là đại diện tiêu biểu cho biết bao phụ nữ trong xã hội phong kiến bất công, tàn bạo.

Với việc xây dựng được tình huống truyện độc đáo, ngôn ngữ đối thoại, chi tiết mang tính thắt nút và mở nút, xây dựng nhân vật đặc sắc cùng miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế và kết hợp hài hòa giữa hiện thực và kì ảo, Nguyễn Dữ đã khắc họa chân thực về thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Tác giả ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp của họ và lên án, tố cáo xã hội phong kiến với chế độ nam quyền, sự phân biệt giai cấp và chiến tranh phi nghĩa đã tước đi hạnh phúc con người.

“Chuyện người con gái Nam Xương” đã vẽ nên bức tranh hiện thực sinh động và đặt ra vấn đề quyền sống, quyền hạnh phúc của con người. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc, ngòi bút nhà văn hướng về người phụ nữ và đưa họ vào vị trí trung tâm tác phẩm. Tác phẩm thực sự là “một áng “thiên cổ kỳ bút”, cho riêng thể loại truyện ngắn Việt nam một truyện ngắn vừa là đột khởi vừa là đỉnh cao vời vợi trong muôn đời.” (Nguyễn Đình Chú).

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo