"Mà nay áo vải cờ đào
Giúp dân dựng nước, xiết bao công trình"
Ấy là những lời thơ mà Ngọc Hân Công chúa viết để ca ngợi người anh hùng Nguyễn Huệ. Hình ảnh vua Quang Trung oai phong, lẫm liệt đã được các tác giả Ngô gia văn phái cũng đã tái hiện chân thực qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh trong hồi thứ mười bốn của “Hoàng Lê nhất thống chí”.
Quang Trung hiện lên là một con người hành động mạnh mẽ quyết đoán. Ngay từ đầu tác phẩm, ông đã hành động một cách xông xáo, nhanh gọn có chủ đích và rất quả quyết. Khi hay tin giặc đã đánh chiếm đến tận Thăng Long, mất cả một vùng rộng lớn, ông không hề nao núng định thân chinh cầm quân đi ngay. Nguyễn Huệ còn làm được biết bao việc lớn như tế cáo trời đất, lên ngôi vua, hành quân đánh giặc… trong vòng một tháng trời. Chỉ vừa mới khởi binh mà ông đã hẹn ngày mừng chiến thắng.
Không chỉ vậy, Quang Trung còn hiện lên với vẻ đẹp trí tuệ. Ông vừa sáng suốt, vừa nhạy bén. Khi quân Thanh hùng hổ xâm chiếm đất nước, tạo nên tình huống khẩn cấp và vận mệnh đất nước bị đặt trên tình thế nguy cấp, ông đã quyết định lên ngôi hoàng đế và đặt niên hiệu là Quang Trung. Việc lên ngôi đã được ông lên kế hoạch kỹ lưỡng với mục đích hội tụ các phái nội bộ, tập hợp những hiền tài và quan trọng hơn là “để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người”, được dân ủng hộ.
Qua lời dụ tướng sĩ trước lúc lên đường ở Nghệ An, Quang Trung đã chỉ rõ “Đất nào sao ấy” người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Ông còn vạch rõ tội ác của chúng đối với nhân dân ta: “Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại dân ta, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi”. Nhờ sự sáng suốt nhận định tình hình địch và ta, Quang Trung đã khích lệ các tướng sĩ dưới quyền bằng những tấm gương chiến đấu dũng cảm từ ngàn xưa như Trưng Nữ Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành,... Chính lời dụ của Quang Trung đã thuyết phục được biết bao người tài. Quang Trung đã dự kiến được việc Lê Chiêu Thống về nước có thể làm cho một số người thay lòng đổi dạ nên ông đã có lời với quân lính chí tình đầy nghiêm khắc: “Các người đều là những người có lương tri, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực để dựng lên công lớn. Chớ có quen thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai”.
Những chuyện xảy ra ở triều đình cũng đều không nằm ngoài sự dự liệu sáng suốt của Quang Trung. Trong dịp hội quân ở Tam Điệp, ông rất hiểu việc rút quân của hai vị tướng Sở và Lân. Do quân ta còn ít không địch nổi đội quân hùng tướng hổ nhà Thanh nên đành phải bỏ thành Thăng Long rút về Tam Điệp để tập hợp lực lượng. Nhờ vây, Sở và Lân không bị trừng phạt mà còn được ngợi khen. Ông còn đánh giá rất cao Ngô Thì Nhậm và sử dụng Nhậm như một vị quân sĩ đa mưu túc trí. Ông cài Ngô thì Nhậm làm việc với Sở và Lân.
Quang Trung còn là người có tầm nhìn xa trông rộng. Mới khởi binh đánh giặc, chưa giành được tấc đất nào vậy mà vua Quang Trung vẫn chắc nịch như đinh đóng cột. Ông không chỉ tính sẵn phương lược tiến đánh mà còn tính sẵn cả kế hoạch ngoại giao. Ông được xem trọng như một vị tướng có tài thao lược hơn người. Cuộc hành quân thần tốc do Quang Trung chỉ huy khiến chúng ta không khỏi kinh ngạc khi vừa hành quân, vừa đánh giặc, thậm chí thực tế còn vượt mức hai ngày. Dù hành quân xa xôi, liên tục như vậy, nhưng nhờ tính kỷ luật, quy định chặt chẽ đối với nghĩa quân, đội quân vẫn chỉnh tề, hành quân triền miên không ngừng.
Vua Quang Trung còn hiện lên với những hành động quyết liệt, mạnh mẽ trong chiến trận. Ông thân chinh cầm quân không phải chỉ trên danh nghĩa mà với vị trí của một tổng chỉ huy chiến dịch thực sự. Dưới sự lãnh đạo tài tình ông, nghĩa quân Tây Sơn đã có những trận đánh thật đẹp, áp đảo kẻ thù dưới sức mạnh quyết liệt ấy. Trong cảnh khói tỏa mù trời, hình ảnh nhà vua cưỡi voi đi đốc thúc với tấm áo bào đã sạm đen khói súng hiện lên sáng ngời giữa trận mạc. Tất cả những nét đẹp như hội tụ và tỏa sáng giữa chiến trường mù mịt khói súng.
Đoạn trích khắc họa sinh động, ấn tượng hình tượng vua Quang Trung qua ngôn ngữ, hành động, cử chỉ dứt khoát và mạnh mẽ. Bối cảnh chiến trường hùng tráng đã trở thành phông nền hoàn hảo để người anh hùng xuất hiện. Tác giả sử dụng ngôi kể thứ ba làm tăng tính chân thực, khách quan cho câu chuyện.
Các tác giả Ngô gia văn phái với ngòi bút thần của mình đã làm nổi bật hình ảnh vua Quang Trung - một niềm tự hào lớn của cả dân tộc, tiêu biểu cho sức mạnh quật cường của dân tộc ta. Người anh hùng Nguyễn Huệ đã trở thành niềm tự hào của nhân dân muôn đời, biểu tượng cho truyền thống đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm của con người Việt Nam.