Bằng cách nhấp vào Đăng nhập, bạn đồng ý Chính sách bảo mật và Điều khoản sử dụng của chúng tôi. Nếu đây không phải máy tính của bạn, để đảm bảo an toàn, hãy sử dụng Cửa sổ riêng tư (Tab ẩn danh) để đăng nhập (New Private Window / New Incognito Window).
Bình đẳng dân tộc là quyền của các dân tộc trong một quốc gia không bị phân biệt theo trình độ phát triển, màu da, đa số, thiểu số … đều có quyền và nghĩa vụ như nhau.
Quyền bình đẳng dân tộc ở Việt Nam được ghi trong các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và 1992.
Là quyền của các dân tộc đã hợp thành quốc gia (quyền của quốc gia) không phân biệt lớn, nhỏ, trình độ phát triển, chế độ chính trị, kinh tế... có địa vị quốc tế bình đẳng với các quốc gia khác, được tôn trọng độc lập, lãnh thổ toàn vẹn, chủ quyền..
Trong một quốc gia đa dân tộc, bình đẳng dân tộc vừa là quyền, vừa là một trong những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ giữa các dân tộc, đảm bảo cho sự đoàn kết dân tộc và phát triển bền vững của cả quốc gia dân tộc.
Thực chất của việc thực hiện quyền bình đẳng dân tộc chính là bảo đảm các quyền cơ bản của mỗi con người và mỗi dân tộc, trong đó có quyền sống, quyền tự do, mưu cầu hạnh phúc và phát triển. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Có dân tộc có số dân hàng chục triệu người, song cũng có dân tộc chỉ có vài ngàn, thậm chí chỉ vài trăm người. Các dân tộc có trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đều nhau. Thực hiện quyền bình đẳng dân tộc ở nước ta thể hiện vai trò và vị trí của mỗi dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Vận dụng lý luận Mác - Lênin trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm rõ những nội dung cụ thể của bình đẳng dân tộc ở Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng dân tộc được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:
Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi
Vui | Buồn | Bình thường |