Theo suốt lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam ta, có biết bao cuộc chiến bảo vệ tổ quốc đã diễn ra. Trong những cuộc chiến đó biết bao cha anh đã phải hy sinh mọi thứ, bỏ lại tuổi xuân, mạng sống của mình để bảo vệ hòa bình cho đất nước. Họ đã ra đi nhưng hình ảnh của họ vẫn còn sống mãi trong lòng người dân Việt Nam. Đã có rất nhiều bài văn, bài thơ được sáng tác để tri ân công lao và tưởng nhớ tới thế hệ đi trước, tới những người lính đang tiếp tục thực hiện sứ mệnh bảo vệ tổ quốc. Nhắc đến những tác phẩm văn học nổi tiếng viết về chủ đề chiến tranh và người lính trong kháng chiến chống Mỹ sẽ thật là thiếu sót lớn nếu không nhắc nhắc tới tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Bài thơ về tiểu đội xe không kính được sáng tác vào năm 1969 in trong tập "Vầng trăng và quầng lửa" (1970). Nổi bật trong bài thơ chính là khổ thơ thứ sáu, nói lên vẻ đẹp tâm hồn của những người lính lái xe vượt dãy Trường Sơn vào miền Nam cứu nước cũng như tinh thần đồng đội thắm thiết của họ:
"Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm"
Sau những chặng đường hành quân mệt mỏi và gian khổ những người lính dừng chân lại để nghỉ ngơi tiếp sức. Họ dùng "Bếp Hoàng Cầm" để nấu cơm, đây là một loại bếp đặc biệt do Hoàng Cầm phát minh ra. Loại bếp này khi nấu sẽ không thấy bay lên cao, tránh để quân địch phát hiện ra nơi trú quân. Tuy vậy nhưng nguy hiểm vẫn luôn rình rập những người lính, kẻ địch vẫn có thể tấn công họ bất cứ lúc nào. Với tinh thần dũng cảm và lạc quan không ngại khó khăn, những người lính thay vì sợ hãi lại thoải mái dựng bếp " giữa trời". Đây chính là khí khái hiên ngang của dân tộc Việt Nam anh dũng. Trong không gian ấm áp của những nồi cơm nghi ngút hơi, những người lính ngồi quây quần ăn nhanh bữa cơm tiếp sức để lên đường chi viện miền Nam. Trong bữa cơm thân mật cùng nhau, họ khẳng định:
" Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy"
Một câu thơ thật ý nghĩa làm sao! Những người lính hành quân coi nhau như ruột thịt, không chỉ "chung bát đũa", họ còn "đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ" như trong bài thơ "Đồng chí" của nhà thơ Chính Hữu. Rộng hơn nữa họ là người thân trong đại gia đình dân tộc Việt Nam, chung máu đỏ da vàng, chung lý tưởng cứu nước, dành lại hoà bình.
Trên con đường vào miền Nam cứu nước những người lính chỉ có thể nghỉ ngơi ở những chiếc võng mắc tạm dọc đường xe chạy:
"Võng mắc chông chênh đường xe chạy"
Những chiếc võng người lính nằm nghỉ ngơi được mắc một cách "chông chênh", không chắc chắn. Hoàn cảnh sinh hoạt của họ thật khó khăn, thiếu thốn. Ấy vậy mà những người lính vẫn không nản chí, yếu đuối, họ tích cực, dũng cảm vô cùng với câu thơ cuối khép lại đoạn sáu:
"Lại đi, lại đi trời thêm xanh"
Những chiếc xe không kính lại bắt đầu nối đuôi nhau để vào miền Nam chi viện. Biện pháp lặp ngữ cụm từ "lại đi" thật hay và đặc sắc. Những người lính cứ từng đoàn đi tiếp mà không dừng lại, tất cả vì hai chứ đất nước. Không chỉ có những đoàn xe không kính tiếp tục sứ mệnh cứu nước, mà tinh thần yêu nước, đấu tranh bảo vệ lãnh thổ của toàn dân tộc ta cũng như vậy, sẽ nối tiếp nhau, tiếp tục dựng xây cơ đồ. Khi chúng ta quyết tâm như những người lính của tiểu đội xe không kính, chúng ta sẽ được thấy "trời xanh thêm". Trời xanh thêm ở đây chính là tượng trưng cho hòa bình, tự do, chính là khát vọng thiêng liêng của những người lính và toàn thể nhân dân, hy vọng một ngày đất nước sẽ thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ.
Đoạn thơ thứ sáu của Bài thơ về tiểu đội xe không kính thật ý nghĩa và đặc sắc. Qua đoạn thơ chúng ta đã cảm nhận được tình đồng đội thắm thiết như ruột thịt của những người lính và vẻ đẹp tâm hồn của họ, dù trong khó khăn, gian khổ, họ vẫn lạc quan, dũng cảm hành quân bảo vệ tổ quốc. Những người lính trong tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính nói riêng và tất cả những người lính Việt Nam nói chung đều là tấm gương sáng cho chúng ta học tập và noi theo, phát huy truyền thống yêu nước bao đời của dân tộc ta.