Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Dịch covid 19 có tác động như thế nào đến ngành dịch vụ nước ta

dịch covid 19 có tác động như thế nào đến ngành dịch vụ nước ta
2 trả lời
Hỏi chi tiết
112
Tham khảo câu trả lời từ Trợ lý ảo Lazi
Dịch COVID-19 đã có tác động mạnh mẽ đến ngành dịch vụ nước ta. Dưới đây là một số tác động chính:

1. Giảm doanh thu: Với việc áp dụng các biện pháp hạn chế di chuyển và giãn cách xã hội, nhiều người dân đã giảm việc sử dụng dịch vụ như nhà hàng, quán cà phê, khách sạn, spa và các hoạt động giải trí. Điều này đã dẫn đến giảm doanh thu đáng kể cho các doanh nghiệp trong ngành dịch vụ.

2. Mất việc làm: Với việc giảm doanh thu, nhiều doanh nghiệp đã phải cắt giảm nhân sự hoặc đóng cửa hoàn toàn. Điều này đã gây ra tình trạng thất nghiệp và khó khăn tài chính cho nhiều người lao động trong ngành dịch vụ.

3. Sự thay đổi trong hình thức kinh doanh: Để thích ứng với tình hình, nhiều doanh nghiệp đã phải thay đổi hình thức kinh doanh. Ví dụ, nhiều nhà hàng và quán cà phê đã chuyển sang cung cấp dịch vụ giao hàng hoặc chuyển đổi sang mô hình kinh doanh trực tuyến.

4. Tăng cường biện pháp an toàn: Để đảm bảo an toàn cho khách hàng và nhân viên, các doanh nghiệp trong ngành dịch vụ đã phải tăng cường các biện pháp vệ sinh và an toàn. Điều này bao gồm việc đeo khẩu trang, sử dụng chất khử trùng, đo thân nhiệt và duy trì khoảng cách an toàn giữa khách hàng.

5. Sự phục hồi chậm: Dịch COVID-19 đã gây ra sự gián đoạn và không chắc chắn trong ngành dịch vụ. Mặc dù có những nỗ lực để khôi phục hoạt động kinh doanh, nhưng sự phục hồi vẫn diễn ra chậm chạp do sự lo ngại về an toàn và sự thay đổi trong hành vi tiêu dùng.

Tóm lại, dịch COVID-19 đã gây ra tác động tiêu cực đáng kể đến ngành dịch vụ nước ta. Để vượt qua tình hình này, các doanh nghiệp cần tìm cách thích ứng và tìm ra các giải pháp sáng tạo để duy trì hoạt động kinh doanh và bảo vệ sức khỏe của khách hàng và nhân viên.
11
0
Linh
22/11/2023 18:09:19
+5đ tặng
- nhiều kế hoạch của ngành du lịch Việt Nam đặt ra hầu như không thực hiện được, các chỉ tiêu đặt ra đều giảm mạnh
- Theo thống kê, tính chung 6 tháng đầu năm 2021, khách quốc tế đạt 88,2 nghìn lượt người, giảm 97,6% so với cùng kỳ năm trước.
-Lượng khách du lịch giảm dẫn đến doanh thu từ du lịch lữ hành cũng giảm
-ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 đã khiến nhiều doanh nghiệp lữ hành phải đóng cửa, dừng hoạt động, cạn kiệt nguồn lực về tài chính. Đồng thời, nhiều lao động trong ngành du lịch đã phải nghỉ việc hoặc chuyển sang làm công việc mới. 

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Little Wolf
22/11/2023 18:12:53
+4đ tặng

Tác động tới chuỗi cung ứng thương mại khu vực

Đại dịch COVID-19 bùng phát đã nhanh chóng lan rộng ra toàn cầu và đang gây thiệt hại nặng nề, làm gián đoạn chuỗi cung ứng thương mại quốc tế do các chuỗi cung ứng từ nguyên liệu dược phẩm, thực phẩm, điện tử và thiết bị y tế của thế giới đều phụ thuộc vào Trung Quốc. Năm 2018, Trung Quốc chiếm tới 28% sản lượng hàng hóa chế tạo toàn cầu. Hầu hết các chuỗi cung ứng quan trọng đều tập trung ở Trung Quốc. Đại dịch COVID-19 làm nổi bật vai trò quan trọng và tác động của Trung Quốc đến mọi nền kinh tế khác, từ ngành sản xuất thiết bị kiểm tra thân nhiệt đến nguồn cung ứng thực phẩm. Đại dịch đã gây ra sự gián đoạn lớn trong thương mại toàn cầu. Các chuỗi cung ứng trong khu vực bị ảnh hưởng và các công ty không thể tiếp cận với nguyên liệu và sản phẩm. Mức tập trung cao khiến cho chuỗi cung ứng bị đứt gãy nhanh hơn, dẫn đến sụt giảm thương mại quốc tế trầm trọng.

Đại dịch COVID-19 làm bộc lộ rõ những rủi ro khi chuỗi cung ứng các sản phẩm, thiết bị thiết yếu bị gián đoạn do mạng lưới chuỗi cung ứng trải rộng toàn cầu, vấn đề lưu thông hàng hóa, dịch vụ và lao động toàn cầu không còn như trước khiến cho mọi hoạt động kinh tế, thương mại và đầu tư không thể thông suốt và hiệu quả, nhiều chuỗi cung ứng quá phụ thuộc vào các trung tâm sản xuất và các thị trường lớn của Trung Quốc. Mạng sản xuất toàn cầu bị đứt gãy trên quy mô chưa từng thấy. Mức tập trung cao khiến cho chuỗi cung ứng toàn cầu bị đứt gãy nghiêm trọng, dẫn đến suy giảm thương mại quốc tế. Báo cáo của Nhóm Ngân hàng thế giới (WBG) cho thấy, năm 2020, GDP toàn cầu giảm 5,2% - mức suy thoái sâu nhất trong 8 thập niên (1940 - 2020). Trong số 14 đợt suy thoái toàn cầu, đợt suy thoái do đại dịch COVID-19 gây ra được đánh giá đứng thứ tư về độ sâu, khiến tỷ trọng thương mại hàng hóa năm 2020 giảm từ 13% - 32%.

Vai trò của Trung Quốc trong mạng lưới sản xuất và cung ứng toàn cầu là rất quan trọng bởi Trung Quốc là nhà cung cấp thiết bị chủ yếu cho ngành công nghiệp ô tô và điện tử toàn cầu, hầu hết điện thoại di động và máy tính thế giới đều được sản xuất tại Trung Quốc. Do đó, khi sản xuất của Trung Quốc bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh thì các chuỗi cung ứng toàn cầu và đặc biệt ở các nước Đông Bắc Á và Đông Nam Á đều không tránh khỏi các tác động.

Các ngành sản xuất ở Đông Nam Á chủ yếu là sản xuất điện thoại di động, dệt may và hàng tiêu dùng. Khi doanh nghiệp Trung Quốc dừng sản xuất, dẫn đến gián đoạn chuỗi cung ứng và ảnh hưởng đến năng lực sản xuất gia công, chế tạo của các nước ASEAN, buộc ASEAN phải ngừng hoặc giảm bớt sản xuất. Hơn 60% nguyên vật liệu của ngành dệt may và da giày Campuchia được nhập từ Trung Quốc.

Trung Quốc là đối tác thương mại hàng đầu của Hàn Quốc, với hơn 25% hàng hóa xuất khẩu của Hàn Quốc có điểm đến là Trung Quốc. Tập đoàn công nghệ Samsung (Hàn Quốc) phải đóng cửa một nhà máy sản xuất điện thoại thông minh. Tập đoàn Huyndai phải dừng một số dây chuyển sản xuất xe ô tô tại Hàn Quốc. Trong khi đó, kinh tế Hàn Quốc phụ thuộc lớn vào hai tập đoàn Samsung và Hyundai (với tổng doanh thu chiếm tới 1/5 GDP của Hàn Quốc). Các ngành điện tử, ô tô, máy móc, dệt may của Hàn Quốc cũng chịu tác động lớn do sự hỗn loạn nguồn cung từ Trung Quốc. Theo đánh giá của Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản, cứ 10 tỷ USD giá trị sản lượng công nghiệp của Trung Quốc suy giảm do gián đoạn sản xuất thì hàng hóa linh kiện xuất khẩu của Trung Quốc sang Hàn Quốc sẽ giảm gần 300 triệu USD.

Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Nhật Bản, chiếm 22% tổng kim ngạch thương mại, cao hơn mức 15% với Mỹ (năm 2019) nên mức độ phụ thuộc của Nhật Bản vào Trung Quốc trong chuỗi cung ứng toàn cầu không hề nhỏ. Ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 khiến nhiều nhà máy tại Trung Quốc phải đóng cửa, các biện pháp chống dịch của chính quyền Trung Quốc (như phong tỏa, hạn chế đi lại...) đã làm tê liệt hàng loạt chuỗi cung ứng trên toàn thế giới, trong đó có Nhật Bản. Chỉ riêng trong tháng 2-2020, số lượng hàng hóa, nguyên vật liệu Nhật Bản nhập khẩu từ Trung Quốc sụt giảm gần một nửa, đẩy các nhà sản xuất của Nhật Bản vào tình cảnh lao đao do “khát” nguyên liệu và cấu phần cần thiết để duy trì sản xuất. Đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng tới chuỗi cung ứng của 54% doanh nghiệp Nhật Bản. Hãng sản xuất ô tô Nissan đã phải tuyên bố ngưng hoạt động sản xuất tại một nhà máy chính tại Nhật Bản. Tình trạng khan hiếm đã khiến doanh nghiệp Nhật Bản bắt buộc phải tìm kiếm các biện pháp nhằm hạn chế sự phụ thuộc vào Trung Quốc.

Năm 2021, số ca mắc virus COVID-19 tại Đông Nam Á (gồm Malaysia, Indonesia) gia tăng càng tác động tiêu cực đến chuỗi cung ứng của các công ty Nhật Bản, kéo theo nguy cơ gián đoạn sản xuất trong khu vực ngày càng rõ rệt. Malaysia - nơi tập trung nhiều công ty của Nhật Bản, ban hành lệnh phong tỏa (tháng 6-2021) khiến các nhà máy thuộc Toyota và Honda phải đóng cửa. Công ty Mitsui Mining & Smelting Co. của Nhật Bản chuyên sản xuất vật liệu cho điện thoại thông minh cũng phải thông báo ngừng sản xuất (tháng 7-2021).

Tác động của đại dịch COVID-19 tới chuỗi cung ứng thương mại Việt Nam

Mặc dù là một trong những nền kinh tế mở nhất thế giới (độ mở của Việt Nam cao gấp 1,5 lần Thái Lan và gấp 5 lần Trung Quốc), song mức độ tham gia của Việt Nam vào các chuỗi cung ứng toàn cầu và khu vực còn hạn chế và thấp hơn nhiều so với các nước cùng khối ASEAN. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới (WB), Việt Nam chỉ tạo ra được 20,4 tỷ USD (năm 2018) thông qua việc tham gia vào chuỗi cung ứng, xếp thứ 53 trong số 174 quốc gia, chưa bằng 1/4 của Philippines với 84,8 tỷ USD (xếp thứ 34). Theo Báo cáo phát triển thế giới (WDR) năm 2020, mức độ tham gia của Việt Nam hiện đang ở cấp độ “chế biến chế tạo mức hạn chế” và cần cải thiện sự tham gia trong chuỗi cung ứng toàn cầu để nâng cao năng suất lao động và tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, đại dịch COVID-19 tác động không nhỏ tới chuỗi cung ứng thương mại Việt Nam trên các khía cạnh sau:

Thứ nhất, gián đoạn chuỗi cung ứng khu vực dẫn đến sản xuất, kinh doanh ở Việt Nam bị trì trệ.

Hầu hết các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh của Việt Nam đều phụ thuộc vào nguồn nguyên phụ liệu, vật tư, phụ tùng nhập khẩu từ Trung Quốc nên khi đại dịch COVID-19 bùng nổ gây tê liệt nền kinh tế Trung Quốc đã trực tiếp làm suy yếu hoạt động sản xuất kinh doanh của Việt Nam. Trong đó, ngành công nghiệp điện - điện tử (máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, điện thoại và linh kiện) là ngành có kim ngạch xuất nhập khẩu lớn nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đại dịch gây ảnh hưởng đến nguồn cung ứng đầu vào phục vụ sản xuất cũng như thị trường tiêu thụ của ngành điện tử Việt Nam, đặc biệt là ảnh hưởng đến nguồn linh phụ kiện đầu vào cho sản xuất trong nước, dẫn đến tăng chi phí sản xuất, lợi nhuận giảm. Các ngành sản xuất khác có nguyên liệu đầu vào nhập khẩu từ Trung Quốc như da giày, dệt may... cũng gặp khó khăn “kép”, cả về nguồn cung đầu vào sản xuất và sức mua của thị trường sụt giảm. Số lượng doanh nghiệp mới thành lập cũng giảm ở hầu hết các lĩnh vực, mức giảm mạnh nhất bao gồm các lĩnh vực nghệ thuật, vui chơi, giải trí (giảm 23%), lĩnh vực bán buôn, bán lẻ (giảm 11,8%), dịch vụ vận tải kho bãi (giảm 37,9%).

Trung Quốc dừng thông quan tại các cửa khẩu với Việt Nam và tăng cường quản lý các cửa khẩu nhằm ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh COVID-19 khiến mọi hoạt động xuất khẩu hàng hóa sang Trung Quốc, đặc biệt là hàng nông - lâm - thủy sản gặp nhiều khó khăn. Các ngành chịu tác động tiêu cực lớn nhất từ đại dịch COVID-19, bao gồm: may mặc, bán lẻ, thủy sản, dầu khí, chứng khoán, cảng biển và vận chuyển, dịch vụ sân bay, hàng không. Đặc biệt, những ngành sản xuất, xuất khẩu chủ lực của Việt Nam phụ thuộc nguồn nguyên liệu đầu vào từ Trung Quốc chịu tác động mạnh nhất do thiếu nguyên liệu đầu vào, gián đoạn chuỗi cung ứng do nguồn thay thế hạn chế. Do nhiều ngành sản xuất của Việt Nam phụ thuộc vào nguyên vật liệu nhập từ Trung Quốc nên dù nhiều nhà máy Trung Quốc mở cửa hoạt động trở lại nhưng việc kiểm dịch hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc cũng chặt chẽ hơn, khiến nhiều ngành sản xuất của Việt Nam vẫn tiếp tục bị thiếu hụt nguyên liệu. Là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, khi sức mua của nền kinh tế Trung Quốc giảm, kinh tế Việt Nam cũng sẽ chịu tổn thương lớn hơn so với các nền kinh tế khác có quy mô tương đương trong khu vực.

Thứ haiđứt gãy chuỗi cung ứng thương mại dẫn đến hoạt động sản xuất của ngành chế biến, chế tạo giảm.

Do ảnh hưởng của dịch bệnh, các thị trường cung cấp nguyên liệu, sản xuất bị gián đoạn, tác động tới các chuỗi cung ứng trong ngành chế tạo và lan ra khắp khu vực bởi vai trò vượt trội của Trung Quốc là cơ sở sản xuất. Việc đóng cửa hàng nghìn nhà máy ở Trung Quốc đồng nghĩa với việc hoạt động sản xuất sẽ bị gián đoạn ở các nước sử dụng linh kiện do Trung Quốc sản xuất. Thậm chí, ngay cả ở các công ty không liên hệ trực tiếp với Trung Quốc cũng bị ảnh hưởng.

Doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất khi đại dịch COVID-19 tác động trực tiếp thị trường xuất nhập khẩu, thị trường tiêu thụ nguyên vật liệu. Nhiều đối tác ở các nước ngừng giao dịch, thậm chí xin hủy đơn hàng đã ký trước. Bối cảnh đó buộc các doanh nghiệp phải chủ động sắp xếp lại tổ chức, dây chuyền sản xuất và tìm giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cho xuất khẩu phải đối mặt với tình trạng các đơn hàng nước ngoài không ngừng sụt giảm. Năm 2020, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng chế tạo và chế biến của Việt Nam đều sụt giảm.

Mặc dù Chính phủ Việt Nam đã có nhiều định hướng trong việc duy trì, ổn định các hoạt động sản xuất, kinh doanh, không để đứt gãy chuỗi cung ứng nhưng do dịch bệnh diễn biến phức tạp nên số lượng doanh nghiệp chế biến, chế tạo rút lui khỏi thị trường tiếp tục tăng. Trong 6 tháng đầu năm 2021, số lượng doanh nghiệp chế biến, chế tạo tạm dừng kinh doanh có thời hạn là 4.225 doanh nghiệp, tăng 18,5% so với cùng kỳ năm 2020. Doanh nghiệp chế biến, chế tạo hoàn tất thủ tục giải thể là 1.138 doanh nghiệp, tăng 29,8%.

Đứt gãy chuỗi cung ứng kéo theo những hạn chế của chuỗi cung ứng đường dài. Những chuỗi cung ứng đường dài này có thể khiến doanh nghiệp đối mặt với tình cảnh hàng tồn kho chất chồng. Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 24,3% (tháng 6-2021) so với cùng thời điểm năm 2020 (tăng 26,7%). Trong đó, một số ngành có tỷ lệ tồn kho cao, như sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa; dệt; sản xuất chế biến thực phẩm; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất.

Thứ ba, đứt gãy nguồn “cung - cầu” lao động việc làm, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng.

Không chỉ có nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng nguyên vật liệu, đại dịch COVID-19 còn khiến nguy cơ đứt gãy chuỗi cung - cầu về nguồn lao động trở nên hiện hữu. Tháng 4-2020, khoảng trên 30 triệu người lao động Việt Nam (tương đương khoảng 50% lực lượng lao động) bị ảnh hưởng trong đợt giãn cách cao điểm. Theo Bộ Lao động và Thương binh xã hội, trong quý II-2020, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị tăng 33%, thu nhập bình quân của người lao động tính theo mức trung bình giảm 5%. Tháng 6-2021, tỷ lệ lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp giảm 1,4% so với tháng 5-2021 và giảm 1% so với cùng thời điểm năm 2020.

Tháng 2-2021, sự bùng phát của đợt đại dịch COVID-19 lần thứ 4  khó kiểm soát hơn đã làm cho tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm trong quý II-2021 tăng mạnh. Trong đó, số người thất nghiệp lên tới gần 1,2 triệu người, số lượng người thiếu việc làm khoảng 1,1 triệu người, tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi của khu vực thành thị tăng 2,8%, cao hơn so với khu vực nông thôn tăng khoảng 2,49%.

Quý II-2021, số lượng lao động đang làm việc giảm 65.000 người. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm ở độ tuổi lao động đều tăng. Lao động thất nghiệp, thiếu việc làm tăng, doanh nghiệp lâm vào tình cảnh khó khăn do thiếu lao động. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có tới 26,7% doanh nghiệp không tuyển dụng được lao động theo yêu cầu. Mặc dù tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm đều tăng, trong khi doanh nghiệp không tìm đủ số lao động. Điều đó cho thấy dấu hiệu của sự đứt gãy về “cung - cầu” lao động, gây ảnh hưởng trực tiếp tới sản lượng sản xuất hàng hóa, cung cấp dịch vụ, dẫn tới sự đứt gãy về nguồn cung sản phẩm hàng hóa, dịch vụ ra thị trường.

Đại địch COVID-19 làm gia tăng bất bình đẳng vì tác động đến người lao động theo nhiều mức độ khác nhau. Lao động ở các ngành dịch vụ bị giảm thu nhập hơn nhiều so với lao động nông nghiệp và các ngành khác. Nếu dịch bệnh tiếp tục kéo dài tại Mỹ và châu Âu, gần như 100% các doanh  nghiệp Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng, và có thể sẽ tác động đến hơn ba phần tư số lao động trong các ngành dệt may và da giày, với hơn 3 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp trong các ngành dịch vụ liên quan.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Địa lý Lớp 9 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư