Mở đầu bài thơ" Tiếng hát con tàu ", nhà thơ Chế Lan Viên hạ bút:
" Tây Bắc ư, có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu? "
Tây Bắc – mảnh hồn thiêng của núi sông, miền đất hứa nâng giấc cho biết bao câu bút gạo cội. Nếu Nguyễn Tuân đến đây vì" thứ vàng mười đã qua thử lửa "qua tuỳ bút" Người lái đò sông Đà "thì Tô Hoài lại thăng hoa trên mảnh đất này với tập" Truyện Tây Bắc "mà linh hồn của nó là truyện ngắn" Vợ chồng A Phủ ". Thưởng thức từng trang văn, độc giả không khỏi ấn tượng với" nàng dâu gạt nợ "của nhà thống lí Pá Tra – Mị. Đặc biệt, đoạn trích dưới đây đã đặc tả diến biến tâm trạng của Mị với sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong đêm tình mùa xuân, qua đó thể hiện giá trị nhân đạo của tác phẩm:
" Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ ực uống ực từng bát. [..] Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa ".
Người yêu văn chương hẳn không còn xa lạ với tên tuổi nhà văn Tô Hoài - cây đại thụ tỏa bóng xuống cánh rừng văn học Việt Nam hiện đại. Đó là cuộc đời sáng tạo và bền bỉ không ngừng với số lượng tác phẩm đạt tới mức kỉ lục: Gần 200 đầu sách. Với vốn hiểu biết phong phú, ngôn ngữ trong sáng, gần gũi, tác phẩm của Tô Hoài đã thu hút được nhiều thế hệ độc giả.
" Vợ chồng A Phủ "được sáng tác năm 1952, in trong tập" Truyện Tây Bắc "cùng" Mường Giơn "và" Cứu đất cứu Mường ". Tác phẩm là kết quả chuyến đi thực tế dài tám tháng cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc của nhà văn. Tác phẩm gồm hai phần: Phần đầu kể về cuộc sống tủi nhục của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, là nô lệ trong nhà thống lí Pá Tra. Kết thúc phần đầu là cảnh Mị cắt dây trói cứu A Phủ và cùng A Phủ trốn khỏi nhà Pá Tra. Phần sau kể Mị và A Phủ ở Phiềng Sa, họ thành vợ chồng, được cán bộ A Châu giác ngộ cách mạng. A Phủ trở thành đội trưởng du kích đánh Pháp bảo vệ làng.
Đoạn trích trên nằm ở phần đầu tác phẩm, khắc họa diến biến tâm trạng của Mị với sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong đêm tình mùa xuân, qua đó thể hiện giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Tô Hoài đã từng quan niệm rằng:" Nhân vật là linh hồn và là trụ cột của tác phẩm ". Đặc biệt trong văn xuôi với thể loại truyện ngắn, một tác phẩm có thành công hay không phụ thuộc hoàn toàn vào nhân vật tham gia bởi nhân vật là trung tâm của câu truyện, có nhân vật mới có thể xây dựng được cốt truyện, diễn biến truyện, việc xây dựng nhân vật chính là dụng ý của nhà văn để thể hiện rõ được nội dung và tình cảm.
Trong tác phẩm" Vợ Chồng A Phủ "Mị là nhân vật chính của câu chuyện. Trước khi về làm dâu nhà thống lí, Mị vốn là một cô gái vùng cao trẻ trung, xinh đẹp, hồn nhiên, có tài" thổi lá cũng hay như thổi sáo, có biết bao nhiêu người mê ", nhưng vì món nợ truyền kiếp, Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Cuộc sống làm dâu của Mị không hề dễ dàng: Bị bóc lột sức lao động, làm việc quần quật suốt ngày đêm; bị chà đạp về quyền sống" không bằng con trâu con ngựa "; và bị hủy diệt về tinh thần" mỗi ngày, Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa ". Nhưng trong con người tưởng như đã chết của Mị vẫn âm ỉ một sức sống tiềm tàng chỉ chờ cơ hội là bùng cháy. Cơ hội ấy đã đến vào một đêm mùa xuân, ngọn gió xuân đã thổi bùng ngọn lửa chưa bao giờ nguội lạnh trong tâm hồn Mị.
Cảnh đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài tràn đầy màu sắc, âm thanh làm say lòng người, đậm màu văn hóa miền núi Tây Bắc. Cảnh được tả từ xa đến gần, màu sắc rực rỡ, tươi sáng, đẹp nhất là vẻ đẹp trang phục của các cô gái Tây Bắc:" Những chiếc váy hoa đã được phơi ra mỏm đá, xòe như con bướm sặc sỡ [..] . Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà ". Âm thanh dân dã mà có sức lay động trái tim con người" Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi "," tiếng chó sủa xa xa ". Cảnh sinh hoạt mùa xuân thể hiện nét đẹp phong tục, văn hóa của dân tộc Mèo:" Trai gái, trẻ con ra sân chơi ấy tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi kèn và nhảy "," bữa cơm Tết cúng ma. Xung quanh, chiêng đánh ầm ĩ, người ốp đồng ". Đặc biệt là phong tục tìm bạn tình của trai gái miền núi qua tiếng sáo đã tạo nên bức tranh mùa xuân đẹp thơ mộng, nồng nàn, rạo rực tình yêu, tràn trề sức sống.
Trước cảnh tưng bừng ấy, cứ tưởng Mị" nào biết có xuân là gì? ". Nhưng thật bất ngờ, đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài đã hồi sinh và hồi xuân tâm hồn Mị. Tâm trạng và hành động Mị được Tô Hoài thể hiện một cách tinh tế, xúc động. Sau bao mùa xuân câm lặng, có lẽ đây là lần đầu tiên người con dâu gạt nợ khẽ thầm hát? Tiếng sáo đã gợi thương gợi nhớ và thức tỉnh. Tiếng sáo đã dẫn đến hành động" nổi loạn ":" Uống rượu ":
Như chúng ta đã biết," uống rượu "là phong tục ngày Tết nơi vùng cao thể hiện không khí ngày Tết. Và Mị cũng uống rượu. Mị" lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát ". Đó là cách uống của người thưởng xuân? Chắc chắn không phải vậy. Uống rượu thưởng xuân phải uống từ từ từng bát một, nhấm nhá, nhấm nháp để tận hưởng và đón nhận hương vị xuân. Đó là cách uống của người khát rượu, thèm rượu? Không đúng, bởi từ lâu Mị chẳng thèm khát gì. Tô Hoài viết:" Ngày Tết, Mị cũng uống rượu ", mọi người uống, Mị cũng uống. Mị uống theo thói quen ngày xuân của người Mèo. Từ" lén "được tác giả sử dụng đầy tinh tế, thể hiện sức sống trong Mị đang dần trở về một cách thầm kín. Mị" uống ực từng bát "như để uống cho say, cho quên đi tất cả những đau khổ tột cùng nhưng càng uống càng tỉnh, càng tỉnh càng nhớ, càng nhớ lại càng đau đớn xót xa. Cái cách uống rượu ấy là sự dồn nén của những uất ức, phẫn uất nên uống rượu mà cứ như nuốt cay nuốt hận vào trong lòng.
Cách uống rượu của Mị chứa đựng sự phản kháng, nói lên nỗi oan khuất đau buồn trong trái tim người con gái. Người ta uống rượu thì say, còn Mị càng uống càng tỉnh, giống như thi sĩ Hồ Xuân Hương:
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn
Uống rượu để giải sầu, mong quên đi, nhưng rượu uống vào rồi thì" say lại tỉnh "vì thực tế vẫn vậy. Hai lần lấy chồng, hai lần làm lẽ, hai lần trở thành góa phụ.
Còn Mị tỉnh, bởi Mị nhớ lại mình ngày xưa và đem so với mình hiện tại như chợt giật mình cho những gì bấy lâu xảy ra với bản thân. Mị tỉnh bởi Mị nhớ lại những đối xử dã man của những kẻ đốn mạt ấy dành cho cô. Nhưng rượu cúng giúp cho Mị hồi sinh, Mị vẫn nghe tiếng sáo vẫy gọi giục giã, men rượu đã nâng tâm hồn Mị bay theo tiếng sáo đến với những cuộc chơi, đám chơi trong của quá khứ. Còn thể xác vẫn ở lại nhà thống lí" nhìn mọi người nhảy đồng, người hát "khi mọi người về hết" Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà ". Từ những chất xúc tác bên ngoài, cùng bản chất mạnh mẽ tràn đầy sức sống. Mị đã hồi sinh cảm xúc trong đêm tình mùa xuân, nghe tiếng sáo" Mị thiết tha bồi hồi ". Những cảm xúc nhẹ nhàng ấy khiến Mị nhớ về quá khứ - một quá khứ tươi đẹp mà chẳng bao giờ Mị dám hy vọng có thể sống lại ngày ấy lần nữa. Ngày ấy," Mị thổi sáo giỏi "," Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị ". Tiếng sáo đã làm thức tỉnh con người tâm linh trong Mị. Hồi tưởng lại mùa xuân đẹp thời con gái, điều đó cho thấy Mị đã được thức tỉnh. Khát vọng sống như ngọn lửa đã bừng sáng tâm hồn Mị.
Từ những hồi ức đẹp đẽ ấy," Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước ". Thật kì lạ người ta không biết trạng thái của bản thân ra sao để rồi một ngày chợt nhận ra mình" trẻ lắm ". Điều ấy chẳng khác nào bao ngày qua ngày, Mị không biết mình đang sống hay chỉ là tồn tại như một cái xác và đêm nay, cô mới chợt tỉnh, nhận thức được mình" vẫn còn trẻ ", mình vẫn đang còn sống và mình phải làm điều gì để chứng minh điều đó. Điều đầu tiên cô muốn làm khi sống lại cảm giác chính" Mị muốn đi chơi ". Khát vọng sống như ngọn lửa bừng cháy bao nhiêu Mị lại phẫn uất bấy nhiêu! Phẫn uất và đau khổ cho thân phận và số phận trớ trêu đầy bi kịch. Bao nhiêu năm rồi, kể từ khi bị gả về nhà thống lí Pá Tra, làm vợ A Sử, Mị đều không được đi chơi xuân, mặc dù" Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau! ". Mị muốn ra ngoài, không còn muốn yên phận sống trong căn phòng kín mít chỉ có một" cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng "hàng ngày nhìn ra không biết là sáng hay tối nữa.
Rồi cái ý thức cá nhân dâng lên mạnh mẽ mà một khi ý thức ấy đỉnh điểm thì Mị lại càng không thể chấp nhận nhục nhã đớn đau trong cái cảnh" sống không ra người "này đây. Sao Mị có thể? Giải thoát! Tự do! Mị không thể tự do thể xác và cô sẽ tự do tâm hồn, và lá ngón một lần nữa xuất hiện" Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa ". Càng nhớ càng buồn, càng buồn càng khổ, thà chết đi cho xong chứ nhớ lại làm chi khi mình bất khả kháng! Như vậy, lá ngón lại lần nữa xuất hiện với tầng ý nghĩa giải thoát, giải thoát khỏi địa ngục trần gian. Địa ngục trần gian ở đây không đơn giản là nỗi đau xác thịt và linh hồn bị hành hạ, mà địa ngục thật sự khi phải sống trong lầm than với những hồi ức ngọt ngào cứ hiện hữu. Và" lá ngón "lại nâng tầm ý nghĩa lên một nấc nữa, đó là" sự tự ý thức ". Đánh dấu sự trở lại của ý thức sống, đánh dấu sự thức tỉnh của một tâm hồn tưởng chừng như đã" chết đi trong cõi sống ". Lá ngón đối với nàng không là liều thuốc độc, mà trở thành thứ phương tiện, hình thức, con đường để đi đến một bến bờ khác không còn đớn đau, để phản kháng lại cái xã hội đương thời mạt hạn. Mị tìm đến lá ngón là tìm đến cái chết như một sự tự cứu và phản kháng.
Ta bắt gặp trong văn học những cảnh ngộ bi thương tương tự: Thuý Kiều trong" Đoạn trường tân thanh "đã tự vẫn, dù không thành, để bảo quản chữ" tiết ", không chấp nhận nhơ nhuốc tấm thân, không thể tiếp tục tồn tại với xã hội bẩn thỉu; Chí Phèo, có lẽ vì là bậc nam nhân nên cái chết của Chí diễn ra có phần chủ động và tác động lớn. Vì anh tự tay đâm chết bá Kiến – tượng trưng cho việc kết thúc cuộc đời dưới đáy xã hội mục ruỗng và tự tay kết liễu đời mình – như thể làm con người đúng nghĩa, dù cái" bắt đầu "đó cũng là dấu chấm hết của anh. Cùng thuộc mô típ nhân vật mang số phận bi đát, những con người đáng quý trọng nhưng" sinh bất phùng thời ".
Tuy nhiên, một cô gái mê tiếng sáo, yêu đời như Mị không thể lùi sâu vào mãi góc chết. Ngọn sóng tủi hờn, bi lụy đang khóc than trong lòng cô gái thì sóng tình yêu và khát vọng của tiếng sáo lại dội lên," lửng lơ bay ngoài đường:
Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi "
Đấy là lời của tiếng sáo, lời của bài tình ca, lời của các bạn trai, gái đang yêu nhau, tâm tình bên nhau và cũng là những tiếng lòng da diết, mãnh liệt từng bao năm bị chôn vùi, kìm nén trong trái tim, trí tuệ của Mị. Giờ đây, MỊ đã có nhận thức sâu sắc về quá khứ, hiện tại, tương lai.
Bằng nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, tự nhiên, ngôn ngữ biểu cảm; đặc biết là nghệ thuật miêu tả, phân tích diễn biến tâm lí nhân vật, đoạn trích trên đã làm nổi bật vẻ đẹp sức sống tiềm tàng mãnh liệt của Mị.
Còn gì đẹp hơn khi nhà văn viết về cuộc sống để ca ngợi con người? Văn học luôn lấy con người làm đối tượng phản anh ra và mỗi giải đoạn, ta lại thấy những nhân vật điển hình. Nhìn lại chặng đường của nền văn học Việt Nam, ta bắt gặp hình tượng Chí Phèo vừa đi vừa chửi" ngật ngưỡng bước ra từ trang sách "của Nam Cao, điển hình cho nỗi thống khổ của người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Ta xót thương cho thân phận bị cái đói cái nghèo thì sát đất của người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn" Chiếc thuyền ngoài xa "– Nguyễn Minh Châu, tiêu biểu cho người lao động miền biển. Ta day dứt trước số phận của Mị trong thân phận" nàng dâu gạt nợ "nhà thống lí Pá Tra qua ngòi bút tài hoa của nhà văn Tô Hoài, là đại diện cho người lao động nghèo miền núi từ trong đau thương đã nhận thức, đấu tranh tự đứng lên giải phóng chính mình.
Giá trị nhân đạo là giá trị cơ bản nhất của tác phẩm văn học chân chính, được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc đối với nỗi khổ đau của con người, sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người; đồng thời tác phẩm cũng đã đứng hẳn về phía những nạn nhân mà lên án các thế lực tàn bạo đã chà đạp lên hạnh phúc, quyền sống và phẩm giá của con người. Với tác phẩm văn học hiện thực sau 1945, giá trị nhân đạo mới mẻ được thể hiện qua việc tác giả mở ra hướng đi cho nhân vật của mình về một cuộc sống tương lai tốt đẹp hơn. Nhà văn đã bộc lộ niềm cảm thông, thương xót trước số phận đau khổ, bất hạnh của những con người lao động nghèo khổ ở vùng núi Tây Bắc, thể hiện qua cuộc đời bất hạnh của Mị. Nhà văn lên tiếng tố cáo, phê phán bọn chúa đất phong kiến miền núi đã dùng cường quyền, thần quyền và lợi dụng những tập tục cổ hủ của người Mèo để áp bức, bóc lột người dân. Nhà văn cũng phát hiện, trân trọng, khẳng định và ngợi ca những vẻ đẹp phẩm chất cao quý của con người dù trong bất kì hoàn cảnh nào. Đó là sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa xuân và sự phản kháng trong đêm cứu A Phủ. Nhà văn cũng thể hiện niềm tin sâu sắc và chỉ ra cho nhân vật của nhân vật con đường đến với tự do, hạnh phúc: Phản kháng và hướng đến ánh sáng cách mạng.
" Nghệ thuật nằm ngoài quy luật của sự băng hoại, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết "(Schedrin). Để làm được điều đó, nghệ thuật phải hướng đến con người với một tinh thần nhân đạo sâu sắc. Và như thế, tôi tin rằng" Vợ chồng A Phủ "là một tuyệt tác trường tồn. Áng văn ấy, cùng tên tuổi nhà văn Tô Hoài – một nhà văn, nhà nhân đạo chủ nghĩa sẽ còn sống mãi, ghi một dấu ấn không phải trong nền văn học nước nhà.
" Ta bây giờ như chồi non mọc lại
Rón rén xanh, khe khẽ tự vươn mình
Đã bao lần tưởng úa tàn hoang dại
Nhưng rồi lại cựa quậy đón bình minh."