Trong văn học trung đại Việt Nam, các tác phẩm phản ánh hiện thực xã hội và bộc lộ các giá trị nhân đạo nhân văn còn chưa thực sự được chú ý, bởi đó là những vấn đề nhạy cảm và thường vướng phải sự chỉ trích, tranh cãi của nhiều người. Đặc biệt là các tác phẩm viết về người phụ nữ, viết về nỗi đau thân phận, về khao khát hạnh phúc lứa đôi vẫn được xem là tầm thường, tủn mủn, không đáng nhắc đến và Truyện Kiều chính là một trong số các tác phẩm vướng phải nhiều tranh cãi khi viết về Thúy Kiều – một cô gái tài sắc vẹn toàn nhưng mang thân phận kỹ nữ nhiều đớn đau. Chỉ đến vài trăm năm sau, những giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm này mới được công nhận và làm sáng rõ, trở thành một trong những kiệt tác của cả nền Văn học Việt Nam. Có thể nói, Truyện Kiều là một tác phẩm gói trọn tất cả những nỗi đau của người phụ nữ trong chế độ phong kiến, ấy là nỗi đau thân phận bọt bèo, những day dứt giữa chữ hiếu và chữ tình, nỗi xót xa cho tình yêu yểu mệnh, nỗi khổ sở cho kiếp chồng chung, nỗi đau sinh tử phân ly,… Trong trích đoạn Trao duyên, nỗi đau khi phải từ bỏ tình yêu, làm tròn hiếu đạo cùng với nỗi đau thân phận của Thúy Kiều được thể hiện vô cùng sâu sắc, qua đó cũng bộc lộ được những nét đẹp trong tính cách của người con gái tài hoa nhưng bạc mệnh này.
Thúy Kiều con gái lớn trong một gia đình giàu có, sống cuộc sống “êm đềm trướng rủ màn che”, nhưng chỉ một biến cố bất ngờ, gia đình bị vu oan mà Thúy Kiều lâm vào cảnh nhà tan cửa nát, cha và em bị bắt giam, gia sản bị tịch thu. Trong chốc lát, nàng dường như mất tất cả, kể cả Kim Trọng trong lúc nàng nguy khốn cũng vì về quê chịu tang mà chẳng thể đỡ đần, âu là cái kiếp nạn nó đã định Kiều phải một mình gánh lấy. Tài sản, tiền bạc đều mất hết, Kiều để cứu cha và em khỏi cảnh ngục tù chỉ đành phải tìm mối bán mình làm lẽ cho Mã Giám Sinh – vốn là một kẻ buôn người giả danh, để lấy một món tiền 400 lượng! Bao nhiêu tài sắc, bao nhiêu thông minh, khéo léo cuối cùng cũng chỉ đáng giá từng ấy tiền, đổi lại một kiếp làm lẽ đầy tủi nhục mà Kiều đâu hay rằng sau đó chính là 15 năm lưu lạc thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần, đầy đớn đau.
Sau khi giải quyết chuyện gia đình êm thấm, cứu được cha và em, làm tròn chữ hiếu, thế nhưng còn chữ tình của nàng thì biết phải làm sao. Nỗi đau bạc mệnh, cùng với nỗi đau khi buộc phải từ bỏ tình yêu đầu đời dày vò tâm can người con gái bất hạnh, đối với chàng Kim nàng đã đành phụ bạc, không biết lấy gì để đền đáp cho phần tình cảm chân thành ấy. Ngay lúc tâm trạng rối bời, day dứt ấy Kiều đã nghĩ ra một cách để trả nghĩa cho Kim Trọng, ấy là trao duyên cho Thúy Vân, em gái của mình, nhờ em chắp mối “duyên thừa” giúp mình chăm sóc, yêu thương Kim Trọng quãng đời về sau.
Có thể trong quan niệm hiện đại, Thúy Kiều làm vậy là ích kỷ là bất công với Thúy Vân, thế nhưng trong chế độ phong kiến việc Thúy Vân thay chị trả nghĩa cho Kim Trọng là chuyện hết sức bình thường. Huống hồ Thúy Kiều đã phải hy sinh cả cuộc đời, hy sinh cả tình yêu để cứu gia đình thì việc Thúy Vân gánh vác cho chị gái mình phần ơn nghĩa với Kim Trọng cũng là hợp lý. Tuy nhiên, là người hiểu lý lẽ thế nên Thúy Kiều cũng hiểu rằng việc mở lời với Thúy Vân là vô cùng khó khăn mà nàng phải thật thận trọng để không làm tổn thương đến người em gái nàng yêu quý nhất.
“Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Thúy Kiều đã dùng những từ “cậy”, “chịu”, “lạy”, “thưa” để nói với Thúy Vân. Xét về vai vế của Kiều và Vân là không hợp lẽ thường, bởi dù cách biệt tuổi tác nhỏ, thế nhưng Kiều vẫn là chị, Vân là em tuân thủ phép tắc kính trên nhường dưới. Thế nhưng ở trong hoàn cảnh của Thúy Kiều, cách nói của nàng là một sự thông minh, tinh tế. Nàng muốn mở lời nhờ em gái chuyện trao duyên, thế nhưng lại sợ em gái không đồng ý, không thông cảm cho nàng, thế nên Kiều đành sử dụng cách nói “cậy em”, tức là lời nhờ vả khẩn thiết, sâu nặng, rồi “em có chịu lời” tức là lời báo trước về sự việc khó khăn mà nàng định nói. Sau đó Kiều hết sức cẩn thận nói với Vân “Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa” đó là một hành động bất thường, trang trọng, mang sắc thái nghiêm túc. Việc Kiều lạy tức xem Vân như ân nhân của mình, là người duy nhất để nàng tin tưởng gửi gắm, đồng thời hành động ấy cũng dồn Thúy Vân vào thế khó xử, khó mà từ chối được lời cậy nhờ của chị gái, dù nàng chưa hề biết đó là chuyện gì.
Sau khi làm lễ lạy với Thúy Vân, Kiều mới nhẹ nhàng “thưa” chuyện với em gái một cách thẳng thắn. Nàng và Kim Trọng đã hết duyên “Giữa đường đứt gánh tương tư”, không chỉ thế nàng lại đã phụ lòng Kim Trọng để gả cho người khác, dù là có nỗi khổ riêng, thế nhưng cũng không thể chối cãi được việc Kiều nợ tình chàng Kim. Để trả món nợ tình nghĩa, Kiều đành nhờ Vân thay mình “Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”, trở thành vợ Kim Trọng, giúp chàng nâng khăn sửa áo, như đã từng thề ước. Có thể nói rằng, dù đã chuẩn bị tâm lý thế nhưng chuyện này đối với Thúy Vân vẫn vô cùng bất ngờ và khó chấp nhận, hiểu được lẽ đó nên Kiều lần lượt kể lại câu chuyện biến cố gia đình, mối tình của mình với Kim Trọng, bộc bạch sự khó xử, day dứt của mình để Thúy Vân có thể thấu hiểu và dễ dàng chấp nhận chuyện trao duyên.
Kể từ khi gặp chàng Kim ,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Trong lời kể của Thúy Kiều, có thể nhận rõ tình cảm sâu sắc mà nàng dành cho Kim Trọng, nhớ về chuyện hai người từng thề ước mà lòng đau như cắt. Khi biến cố xảy đến Thúy Kiều không còn lựa chọn nào khác nên đành phải phụ lại mối tơ duyên với chàng Kim, tội lỗi ấy dù là tình thế ép buộc thế nhưng chắc chắn cũng khiến Kim Trọng khó à nguôi ngoai. Đặc biệt Thúy Kiều là người hiểu biết lễ nghĩa, chữ tín trong tình yêu đối với nàng lại càng thiêng liêng hơn cả, chính thế Thúy Vân người em gái ruột thịt của nàng là sự lựa chọn tốt nhất lúc này để giúp nàng san sẻ âu lo, trả lại phần ân tình với Kim Trọng.
Kiều nói ra những lời đau đớn, xót xa như thế ắt là để Vân được thấu hiểu những nỗi khổ tâm trong lòng mình, dẫu biết rằng “Ngày xuân em hãy còn dài”, cuộc đời đáng lý phải trải qua những chuyện tốt đẹp hơn, có được lang quân, được tình yêu như ý nguyện chứ chẳng phải là cảnh chắp mối duyên thừa này. Thế nhưng ngày xuân của Vân còn đó, ít nhất nàng vẫn được sống cảnh êm đềm, còn ngày xuân của Kiều có lẽ đến đây đã là chấm hết, ai xót xa cho? Thúy Kiều lấy thân phận chị, cũng là thân phận người chịu ơn cậy nhờ Vân, mong rằng Vân hiểu mà “Xót tình máu mủ thay lời nước non”, giúp nàng hoàn thành tâm nguyện trước khi phải đi xa. Mấy câu “Chị dù thịt nát xương mòn/Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”, gần như là lời dặn dò, tâm nguyện cuối cùng của một con người đang có những dự cảm không mấy tốt đẹp về cuộc đời mình. Hỏi rằng khi nghe những lời đau đớn, xót xa như thế Thúy Vân có đành lòng từ chối hay không?
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên!
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.”
Đợi Thúy Vân nhận lời đồng ý xong xuôi, Kiều lại mang hết những vật kỷ niệm, đính ước của mình và Kim Trọng ra trao lại cho em gái, hành động ý có nghĩa vô cùng sâu sắc, thể hiện tấm lòng của Kiều đối với chuyện trao duyên cho em gái. Với nàng đó không phải là việc nhờ cậy cho xong món nợ ân tình, để dứt áo ra đi, mà nó thể hiện sự trân trọng của Kiều đối với mối tình này. Bản thân nàng lúc nào cũng để cho nó một vị trí thiêng liêng, luôn muốn nó được trọn vẹn, dù rằng giờ đây cũng thành chắp vá, thế nhưng đã trao tình, thì phải trao lại cả vật đính ước, thể hiện sự dứt khoát, mạnh mẽ của Thúy Kiều, dù rằng thâm tâm nàng chất chứa nhiều đau khổ. Nỗi đau khổ, day dứt, sự tiếc nuối thể hiện rõ rệt trong từng lời nàng dặn Thúy Vân, trao cho em “chiếc vành với bức tờ mây”, nhưng lại dặn em “Duyên này thì giữ vật này của chung” tức là chuyện duyên nợ từ nay là của riêng Thúy Vân với Kim Trọng thế nhưng những kỷ vật này thì lại là của chung ba người. Thúy Kiều dặn dò Thúy Vân rằng đừng bao giờ quên mình, nếu có thương xót chị mệnh bạc thì mang đàn ra gẩy và hương ra đốt để tưởng nhớ, như là lời dặn dò trăn trối đầy ảm đạm, thê lương. Sâu xa trong những lời nói của Thúy Kiều không chỉ là những dự cảm không lành về một cuộc đời nhiều sóng gió, sự chán chường tuyệt vọng trước số phận, mà đó còn là niềm mong mỏi hy vọng rằng dù bản thân ra đi thế nhưng Kim Trọng vẫn có thể vì những kỷ vật quý giá mà nhớ tới mình, bấy nhiêu thôi cũng đủ khiến lòng Kiều được xoa dịu.
“Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ gió cây,Ư
Thấy hiu hiu gió, thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt, khuất lời,
Rảy xin chén nước cho người thác oan.”
Ở những câu thơ tiếp, Thúy Kiều tiếp tục dặn dò em gái như lời dặn dò hậu sự mai sau của chính mình, Thúy Kiều bán mình làm lẽ cho người, không hẳn là đi vào con đường tuyệt lộ, thế nhưng đối với nàng cuộc đời, tuổi xuân dường như đã bị chôn vùi, lại nhớ đến Đạm Tiên cùng giấc mộng đoạn trường, Kiều càng có những dự cảm không lành về số phận của mình. Chính lẽ ấy càng làm cho Kiều đau đớn, xót xa, những lời dặn dò cũng trở nên buồn thảm, tăm tối, hướng về cái chết hơn sự sống, mà có lẽ cuộc đời Kiều đã bắt đầu chết từ lúc nàng chấp nhận bán mình. Thúy Kiều đau khổ, nhưng nàng vẫn ẩn nhẫn, nén nhịn những đau khổ ấy vào lòng, nhẹ nhàng dặn dò Thúy Vân, cũng mong cho Vân có được cuộc sống điền viên hạnh phúc, chỉ là những lúc rảnh rang, đốt hương, gảy đàn cùng với Kim Trọng, mong rằng vợ chồng em hãy còn nhớ đến một người con gái bạc mệnh “Rảy xin chén nước cho người thác oan”. Đủ để thấy rằng Thúy Kiều không chỉ là một hình mẫu lý tưởng, sống hiểu biết lý lẽ, chu toàn mọi việc, dứt khoát, mạnh mẽ, mà nàng còn là một con người có tình cảm, cũng biết đau buồn, khổ sở, tuyệt vọng cho số phận mình.
“Bây giờ trâm gãy bình tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phân sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Sau khi đã giao phó ổn thỏa hết tất cả mọi chuyện, Thúy Vân rời đi, chỉ còn lại một mình Kiều, nàng nhìn lại tất thảy những biến cố mà mình vừa phải trải qua, cuối cùng đau đớn nhất, khiến nàng day dứt nhất vẫn là mối tình với Kim Trọng. Cặp trai tài gái sắc vốn đã tưởng sẽ có được cuộc hôn nhân mỹ mãn, người người ngưỡng mộ, thì chỉ một biến cố từ sự bất công của xã hội đã phá nát hết tất cả chỉ còn “trâm gãy bình tan”, không thể nào hàn gắn. Kiều nhớ lại những phút giây hạnh phúc bên Kim Trọng “Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân” mà lòng quặn thắt, tiếc nuối khôn nguôi, đặc biệt việc bội ước đã khiến nàng cảm thấy vô cùng hổ thẹn và có lỗi.
Trước tình cảnh trớ trêu của số phận, trước Kiều lạy để cậy nhờ Thúy Vân, thì sau nàng lại lạy Kim Trọng để xem như là lời tạ tội sâu sắc. Mấy câu “Trăm nghìn gửi lạy tình quân/Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi” càng bộc lộ tình yêu sâu sắc của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng, khi nàng xem đó là điều thiêng liêng, tốt đẹp bậc nhất cuộc đời, đồng thời lời than trách tơ duyên ngắn ngủi là nỗi tiếc nuối, xót xa cho một mối tình dở dang, phải kết thúc trong đau đớn. Cùng với những tiếc nuối, hổ thẹn với Kim Trọng, Kiều còn tự ý thức sâu sắc về số phận của mình. Đó là lời than khóc, bất lực trước sự ngang trái của xã hội “Phận sao phận bạc như vôi/Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”, Thúy Kiều tự thấy xót xa cho cuộc đời mình, cuộc đời của một cô gái tài sắc vẹn toàn nhưng lại đầy bế tắc, bị dồn đến bước đường làm thiếp thất, tủi nhục, phải tự tay cắt đứt tình duyên mà mình hằng trân trọng. Bấy nhiêu nỗi đau như thế, đặc biệt là sự thống khổ, uất ức khi buộc phải chia cách với Kim Trọng đã khiến Kiều cất tiếng kêu khóc đầy tuyệt vọng, xót xa “Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”, mở ra một chuỗi 15 năm đầy sóng gió, bất hạnh, đoạn trường.
Trích đoạn Trao duyên là một trong những trích đoạn đặc sắc của Truyện Kiều khi thể hiện được những nỗi đớn đau của Thúy Kiều trước biến cố gia đình, biến cố tình yêu. Từ đó bộc lộ được những nét đặc sắc trong tính cách của nàng đó là sự thông minh, cẩn thận, hiểu biết lý lẽ, tình yêu sâu sắc của nàng với Kim Trọng, cũng như sự tự ý thức về số phận đớn đau của bản thân trước những ngã rẽ lớn trong cuộc đời. Thể hiện tấm lòng nhân đạo, thấu hiểu và cảm thông sâu sắc của Nguyễn Du đối với thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ, cũng như tấm lòng trân trọng của ông trước những con người có vẻ đẹp phẩm chất đáng quý mà đại diện là nàng Thúy Kiều tài sắc vẹn toàn.