VỀ BÀI THƠ ÔNG ĐỒ CỦA VŨ ĐÌNH LIÊN
Văn tả thật ít lời mà cảnh hiện ra như vẽ, không chỉ bóng dáng ông đồ mà cả cái tiêu điều của xã hội qua mắt của ông đồ. Tác giả đã có những chi tiết thật đất: nơi ông đồ là bút mực, nơi trời đất là gió mưa, nơi xã hội là sự thờ ở không ai hay. Thể thơ năm chữ vốn có sức biểu hiện những chuyện dầu bề, hoài niệm, đã tỏ ra rất đắc địa”, nhịp điệu khơi gợi một nỗi buồn nhẹ mà thấm. Màn mưa bụi khép lại đoạn thơ thật ảm đạm, lạnh, buồn, vắng. Như vậy, cũng chỉ tám dòng, bốn mươi chữ đủ nói hết những bước chót”) của một thời tàn. Sự đối chiếu chi tiết ở đoạn này với đoạn trên: mực với mực, giấy với giấy, người với người càng cho ta thấy cải thảng thốt, xót xa của sự biến thiên.
Có một khoảng thời gian trôi qua, khoảng trắng của đoạn thơ, trước khi vào bốn dòng kết.
Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muốn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Hãy trở lại với dòng thơ đầu bài “Mỗi năm hoa đào nở để thấy quy luật cũ không còn đúng nữa. Ông đó đã kiên nhấn "vẫn ngồi đấy”, nhưng năm nay không còn kiên nhẫn được nữa: “Không thấy ông đồ xưa.". Ông đã cố bám lấy xã hội hiện đại, những người hiện đại chúng ta đã thấy sự cố sức của ông, đã thấy ông chơi với, nhưng chúng ta đã không làm gì, để đến bây giờ quay nhìn lại, mới biết ông bị buông rơi tự bao giờ. Bóng dáng ông đâu phải bóng dáng của một người mà là bóng dáng của cả một thời đại, bóng dáng kí ức của chính tâm hồn chúng ta. Đến bây giờ, chúng ta mới thấy luyến tiếc, nhưng quá muộn rồi. Chúng ta hỏi nhau hay tự hỏi mình? Hỏi hay khẩn khửa tưởng niệm, hay ân hận sám hối ?? Hai dòng thơ hàm súc nhất của bài, chúng ta đọc được ở đấy số phận của ông đồ và nhất là đọc được thái độ, tình cảm của cả một lớp người đối với những gì thuộc về dân tộc. Về ngữ pháp, dòng thơ này rất lạ, nhưng không thấy cộm: "Những người muôn năm cũ”. “Muốn nam” thật ra chỉ vài ba năm, nhưng nói “muốn năm mới đúng, thời ông đồ đã xa lắc rồi, đã lẫn vào những bút, những nghiên rất xa trong lịch sử. Chữ "muôn năm cũ của dòng trên dội xuống chữ "bây giờ của dòng dưới. càng băng khuâng, luyến nhớ. .