Bằng cách nhấp vào Đăng nhập, bạn đồng ý Chính sách bảo mật và Điều khoản sử dụng của chúng tôi. Nếu đây không phải máy tính của bạn, để đảm bảo an toàn, hãy sử dụng Cửa sổ riêng tư (Tab ẩn danh) để đăng nhập (New Private Window / New Incognito Window).
Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu là một trong những tác phẩm xuất sắc viết về đề tài người lính thời kì đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Xuất phát từ những cảm xúc chân thực và tình cảm yêu nước sâu sắc, Chính Hữu tìm cách lí giải những cơ sở hình thành nên tình đồng chí, đồng đội keo sơn, thắm thiết của người lính.
Ở đoạn đầu, với 7 câu tự do, dài ngắn khác nhau, có thể xem là sự lý giải về cơ sở tạo nên tình đồng chí, đồng đội của những người lính. Mở đầu bằng hai câu đối nhau rất chỉnh :
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Hai câu thơ đầu tiên giới thiệu quê hương “anh” và “tôi” – những người lính xuất thân là nông dân. “Nước mặt đồng chua” là vùng đất ven biển nhiễm phèn khó làm ăn, “đất cày lên sỏi đá” là nơi đồi núi, trung du, đất bị đá ong hoá, khó canh tác. Hai câu chỉ nói về đất đai – mối quan tâm hàng đầu của người nông dân, cho thấy sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân nghèo khó là cơ sở sự đồng cảm giai cấp của những người lính cách mạng.
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Từ phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Từ “tôi” chỉ hai người, hai đối tượng chẳng thể tách rời nhau kết hợp với từ “xa lạ” làm cho ý xa lạ được nhấn mạnh hơn. Từ những phương trời xa xôi tuy chẳng quen nhau nhưng ở họ có cùng một nhịp đập của trái tim, cùng tham gia chiến đấu, giữa họ đã nảy nở một tình cảm cao đẹp: Tình đồng chí. Tình cảm ấy không phải chỉ là cùng cảnh ngộ mà còn là sự gắn kết trọn vẹn cả về lý trí, lẫn lý tưởng và mục đích cao cả: chiến đấu vì độc lập, tự do của tổ quốc.
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”
Tình đồng chí cao đẹp ấy còn được ươm mầm và trở nên bền chặt trong lối sống chan hoà, chia sẻ mọi gian lao, thiếu thốn, niềm vui, nỗi buồn. Đó là mối tình tri kỷ của những người bạn chí cốt được biểu hiện bằng hình ảnh cụ thể, giản dị mà hết sức gợi cảm: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”. “Chung chăn” có nghĩa là chung cái khắc nghiệt, khó khăn của cuộc đời người lính, chia sẻ cuộc sống thiếu thốn, nhất là chung hơi ấm để vượt qua cái lạnh, mà sự gắn bó là thành thật với nhau. Câu thơ đầy ắp kỷ niệm và ấm áp tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng. Từ “chung” nhưng bao hàm nhiều ý: chung cảnh ngộ, chung giai cấp, chung chí hướng, chung một khát vọng…
Nhìn lại cả 7 câu thơ đầu những từ ngữ nói về người lính ta thấy rõ một sự vận động của tình cảm con người. Đầu tiên là “anh” và “tôi” trên từng dòng thơ như một kiểu xưng danh khi mới gặp gỡ, dường như vẫn là hai thế giới riêng biệt. Rồi “anh” với “tôi” trong cùng một dòng, đến “đôi người” nhưng là “đôi người xa lạ”, và rồi đã biến thành đôi tri kỷ – một tình bạn keo sơn, gắn bó. Và cao hơn nữa là đồng chí. Như vậy, từ rời rạc riêng lẻ, hai người đã dần hòa nhập thành chung, thành một, khó tách rời.
Có thể thấy, cơ sở tạo nên tình đồng chí, đồng đội của những người lính trước hết, họ cùng chung lớp người nghèo khó, bị thực dân tước mất quyền làm người, quyền sinh tồn, đẩy họ vào tình thế phải đối kháng. Thứ hai, ở họ có tình yêu nước sâu đậm, quyết không khuất phục kẻ thù xâm lược. Thứ ba, họ là những người có trái tim giàu lòng yêu thương, biết sẻ chia, nâng đỡ, động viên, gắn bó, cùng chia ngọt sẻ bùi để vượt qua gian lao, thử thách, thực hiện lý tưởng cao đẹp. Ở họ là một ý chí chiến đấu kiên cường. Không tiếc máu xương, họ đã đã chấp nhận sống vì đất nước, vì cuộc sống hòa bình của dân tộc.
Hai tiếng “Đồng chí!” kết thúc khổ thơ thật đặc biệt, sâu lắng. Chỉ với hai chữ “Đồng chí’ và dấu chấm cảm, tạo một nét nhấn như một điểm tựa vững vàng. Nó vang lên như một phát hiện, một lời khẳng định đinh ninh, một tiếng gọi tràn đầy xúc động từ trong tim, lắng đọng trong lòng người về hai tiếng thiêng liêng ấy. Câu thơ như một bản lề gắn kết hai phần bài thơ làm nổi rõ một kết luận: họ có cùng hoàn cảnh xuất thân, cùng cảnh ngộ, cùng lý tưởng thì trở thành đồng chí của nhau. Đồng thời nó cũng mở ra vẻ đẹp tình đồng chí của người lính thiêng liêng ở đoạn sau của bài thơ.
Không có tiếng tiếng súng nhưng người đọc vẫn cảm nhận rất rõ ràng sự khốc liệt của cuộc chiến. Hình tượng người lính cũng được khắc họa đậm nét qua những biểu tượng giàu sức gợi tả. Thành công của Chính Hữu trong bài thơ “Đồng chí” chính là ở chỗ nói những điều bình dị để lộ rõ cái phi thường của người lính. Bởi thế, dù trải qua thời gian, bài thơ vẫn còn sức gợi đối với người đọc hôm nay.
Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi
Vui | Buồn | Bình thường |