Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Anh/chị hãy viết bài văn (khoảng 600 chữ) so sánh, đánh giá hai đoạn trích sau:

Anh/chị hãy viết bài văn (khoảng 600 chữ) so sánh, đánh giá hai đoạn trích sau:

HAI LẦN CHẾT

Thạch Lam

  (Lược dẫn: Dung là con thứ bốn trong gia đình bị sa sút kinh tế. Nàng lớn lên trong sự hờ hững, lạnh nhạt của gia đình. Rồi bị mẹ gả bán cho một nhà giàu để lấy mấy trăm đồng bạc.)

  Khốn nạn cho Dung từ bé đến nay không phải làm công việc gì nặng nhọc, bây giờ phải tát nước, nhổ cỏ, làm lụng đầu tắt mặt tối suốt ngày. Đã thế lại không có người an ủi. Chồng nàng thì cả ngày thả diều, chả biết cái gì mà cũng không dám cãi lại bà cụ. Còn hai em chồng nàng thì ghê gớm lắm, thi nhau làm cho nàng bị mắng thêm.

   Những lúc Dung cực nhọc quá, ngồi khóc thì bà mẹ chồng lại đay nghiến:

- Làm đi chứ, đừng ngồi đấy mà sụt sịt đi cô. Nhà tôi không có người ăn chơi, không có người cả ngày ôm lấy chồng đâu.

  Rồi bà kể thêm:

- Bây giờ là người nhà tao rồi thì phải làm. Mấy trăm bạc dẫn cưới, chứ tao có lấy không đâu.

  Dung chỉ khóc, không dám nói gì. Nàng đã viết ba bốn lá thư về kể nỗi khổ sở của nàng, nhưng không thấy cha mẹ ở nhà trả lời.

 (Lược dẫn: Dung ăn trộm tiền của mẹ chồng để trốn về nhà nhưng bị mẹ đẻ đay nghiến. Sáng hôm sau, mẹ chồng xuống tim nàng.)

    Bị khổ quá, nàng không khóc được nữa. Nàng không còn hi vọng gì ở nhà cha mẹ nữa. Nghĩ đến những lời đay nghiến, những nỗi hành hạ nàng phải sẽ chịu, Dung thấy lạnh người đi như bị sốt. Nàng hoa mắt lên, đầu óc rối bời, Dung ước ao cái chết như một sự thoát nợ.

   Nàng không nhớ rõ gì. Ra đến sông lúc nào nàng cũng không biết. Như trong một giấc mơ, Dung lờ mờ thấy cái thành cầu, thấy dòng nước chảy. Trí nàng sắc lại khi nước lạnh đập vào mặt, nàng uất ức lịm đi, thấy máu đỏ trào lên, rồi một cái màng đen tối kéo đến che lấp cả.

   Bỗng nàng mơ màng nghe thấy tiếng nhiều người, tiếng gọi tên nàng, một làn nước nóng đi vào cổ. Dung ú ở cựa mình muốn trả lời.

  [...] Hai hôm sau, Dung mạnh khoẻ hẳn. Bà mẹ chồng vẫn chờ nàng, hỏi có vẻ gay gắt thêm:

 - Cô định tự tử để gieo cái tiếng xấu cho tôi à? Nhưng đời nào, trời có mắt chứ đã dễ mà chết được. Thế bây giờ cô định thế nào? Định ở hay định về?

Dung buồn bã trả lời:

Con xin về.

       (Trích Tuyển tập Thạch Lam, NXB Văn học, 2008, tr. 75-84)

DÌ HẢO

-Nam Cao -

 (Lược dẫn: Dì Hảo là con nuôi của bà tôi. Bố đẻ của dì chết đã lâu. Mẹ đẻ dì là bà xã Vận. Dù công việc buôn bán thuận lợi nhưng vì phải nuôi hai đứa con nheo nhóc cùng với đống nợ chồng chất nên bà để dì Hảo đi ở. Mới đầu về nhà mẹ nuôi, dì Hảo khóc ghê lắm nhưng rồi dì cũng quen dần và trở thành một người con gái rất ngoan đạo. Đến khi lấy chồng, dì dành cho chồng tất cả tình yêu thương nhưng chồng dì lại là một kẻ cờ bạc, rượu chè, vũ phu, không yêu dì.)

   Hắn khinh đì là đứa con nuôi, còn hẳn là con dòng cháu giống.

Và tuy rằng nghèo xác, hắn nhất định không làm gì. Hắn lấy vợ để cho  vợ nó nuôi. Dì Hào cũng nghĩ đúng như thế ấy; dì làm mà nuôi hắn. Người vợ đảm đang ấy kiểm mỗi ngày được hai hào, dì ăn có năm xu. Còn một hào thì hắn dùng mà uống rượu. Và dì Hảo sung sướng lắm. Và gia đình vui vẻ lắm. Nhưng sự tai ác của ông trời bắt dì đè một đứa con. Đứa con chết, mà dì thì tê liệt. Mỗi ngày ngồi là một ngày không có hai hào. Người chồng muốn đó là cái lỗi của người vợ vô phúc ấy. Nhưng mới đầu hẳn chỉ nghĩ thể thôi. Là vì nhờ ít tiền dành dụm. người ta vẫn có thể đủ cả cơm lẫn rượu. Nhưng rồi rượu phải bớt đi. Đến cả cơm cũng thế. Đến lúc ấy thì hắn không nhịn được nữa. Hắn chùi bâng quơ. Hắn chửi những nhà giàu, hắn chửi số kiếp hắn, và sau cùng thì chửi vợ. Ô! Hắn chửi nhiều lắm lắm, một bữa đói rượurồi tình cờ có một bữa rượu say.

  Dì Hào chẳng nói năng gì. Dì nghiến chặt răng để cho khỏi khóc nhưng mà dì cứ khóc. Chao ôi! Dì Hảo khóc. Dì khóc nức nở, khóc nấc lên, khóc như người ta thổ. Dì thổ ra nước mắt. Nhưng đã vội phí nước mắt làm gì nhiều đến thế. Vì dì còn phải khóc hơn thế nhiều, khi hẳn chân chữi, bỏ nhà mà đi, bỏ đi bơ vơ, đau ốm, để tìm cơm rượu. Trách làm gì hẳn, cải con người bắt buộc phải tàn nhẫn ấy? Hắn phải ăn, phải uống, phải vui thú, đó là đời của hắn. Dì Hảo què liệt không còn những cải ấy để mà cho. Không, dì có trách chi con người tàn nhẫn ấy. Cũng như dì đã không trách bà tôi đã làm ngơ không cấp đỡ cho dì. Bà tôi có còn giàu như trước nữa đâu? Người đã già, đã ốm yếu, và khổ cực thay! Đã nghèo như lúc còn hăm hai. Cái cơ nghiệp người gây dựng thầy tôi buôn bán thua lỗ, chúng tôi học hành tồn phi nhiều, đã tan tác đi theo gió bốn phương. Người chỉ có thể đem đến cho dì Hảo mỗi ngày một xu quả, và rất nhiều nước mắt. Và rất nhiều lời than thở.

  (Trích “Dì Hào”, Tuyển tập truyện ngắn Đôi mắt, Nam Cao, NXB Văn học, 2017)

  Chú thích

* Thạch Lam (1910-1942) tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi là Nguyễn Tường Lân, là người đôn hậu và tinh tế, rất thành công ở thể loại truyện ngắn. Thạch Lam chủ yếu khai thác thế giới nội tâm của nhân vật với những cảm xúc mong manh, mơ hồ. Mỗi truyện ngắn như một bài thơ trữ tình. Các tác phẩm chính: Gió lạnh đầu mùa (truyện ngắn, 1937), Nắng trong vườn (truyện ngắn, 1938), Ngày mới (tiểu thuyết, 1939),...

* Nam Cao (1915-1951) tên khai sinh là Trần Hữu Tri, là nhà văn lớn nhất của trào lưu văn học hiện thực phê phán 1930–1945, là người có vẻ ngoài lạnh lùng nhưng đời sống nội tâm phong phú, có tấm lòng đôn hậu, chan chứa yêu thương. Nam Cao luôn đi sâu khai thác đời sống nội tâm, tinh thần nhân vật, sử dụng phương pháp độc thoại nội tâm đầy khéo léo và tinh tế. Các tác phẩm chính: Chí Phèo (truyện ngắn, 1941), Lão Hạc (truyện ngắn, 1943), Sống mòn (tiểu thuyết, 1944),...

1 trả lời
Hỏi chi tiết
121
Tham khảo câu trả lời từ Trợ lý ảo Lazi
Khi so sánh hai đoạn trích "Hai lần chết" của Thạch Lam và "Dì Hảo" của Nam Cao, ta có thể thấy rõ những điểm tương đồng và khác biệt trong chủ đề, nhân vật cũng như bối cảnh. Hai tác phẩm này đều phản ánh cuộc sống khắc nghiệt của những người phụ nữ trong xã hội Việt Nam đầu thế kỷ 20, nhưng lại có cách tiếp cận và ngôn ngữ biểu đạt khác nhau, tạo nên nét độc đáo riêng cho mỗi tác giả.

**Chủ đề về số phận người phụ nữ:**
Cả hai đoạn trích đều xoay quanh số phận bi thảm của những người phụ nữ. Trong "Hai lần chết," Dung là hình ảnh của một người phụ nữ không có quyền lực trong gia đình, sống trong sự ngược đãi từ mẹ chồng và chồng. Cuộc sống của nàng là chuỗi ngày làm lụng vất vả và chịu đựng, dẫn đến mong ước về cái chết như một lối thoát duy nhất. Câu chuyện của Dung không chỉ phản ánh nỗi đau của cá nhân mà còn là tiếng nói của nhiều người phụ nữ cùng thời, họ bị ràng buộc bởi những truyền thống và áp lực gia đình.

Tương tự, "Dì Hào" cũng thể hiện số phận đầy bi kịch của một người phụ nữ. Dì Hảo, dù là một người vợ hy sinh, luôn dành trọn tình yêu cho chồng nhưng lại phải sống bên một người chồng cờ bạc, vũ phu và không yêu thương. Qua ngòi bút của Nam Cao, ta cảm nhận được nỗi đau tột cùng của dì Hảo, không chỉ là sự tủi nhục khi bị coi thường mà còn là nỗi đau bên trong khi phải chịu đựng nỗi bất hạnh.

**Nhân vật:**
Nhân vật Dung trong tác phẩm của Thạch Lam thể hiện sự yếu đuối, cam chịu và sự khao khát được giải thoát khỏi cuộc sống đau khổ. Nàng không còn mong chờ sự giúp đỡ từ gia đình, mà chỉ tìm thấy trong cái chết một lối thoát. Trong khi đó, dì Hảo của Nam Cao, mặc dù cũng khổ sở nhưng lại thể hiện sự kiên cường và chịu đựng nhiều hơn. Dì Hảo không trách móc ai, từ chồng cho đến người nuôi dưỡng mình. Điều này cho thấy một tâm hồn bao dung, có chiều sâu hơn, dù rằng bản thân dì cũng đang chìm trong nỗi bi quan.

**Bối cảnh và cách biểu đạt:**
Thạch Lam sử dụng lối viết tinh tế, giàu tính chất trữ tình. Những cảm xúc mơ hồ và tâm trạng của Dung được khắc họa rõ ràng qua từng câu chữ, tạo cảm giác sâu sắc và gần gũi với người đọc. Mặt khác, Nam Cao lại sử dụng giọng điệu châm biếm nhưng thấm đẫm sự sâu sắc, từ đó bộc lộ hiện thực khắc nghiệt của xã hội cũng như con người. Cách hành văn của ông dù có phần hài hước nhưng lại chứa đựng nhiều chua chát, thể hiện sự mỉa mai về thân phận con người.

**Kết luận:**
Tóm lại, cả hai đoạn trích "Hai lần chết" và "Dì Hảo" đều là những tác phẩm mang đậm dấu ấn hiện thực phê phán, phản ánh cuộc sống nhẫn nhịn và tăm tối của người phụ nữ trong xã hội cũ. Trong khi Thạch Lam thể hiện tâm trạng của nhân vật một cách tinh tế và trữ tình, thì Nam Cao lại sử dụng bi kịch cuộc đời nhân vật để thể hiện tiếng nói phản kháng mạnh mẽ đối với thực tại xã hội. Qua đó, ta thấy được những khía cạnh khác nhau của cùng một chủ đề lớn – nỗi khổ đau và số phận bi thảm của người phụ nữ trong xã hội.
1
0
Nhi
06/09 21:49:16
+5đ tặng

Người đọc đến với Thạch Lam, họ quên và hầu như không cần thiết xem ông là nhà văn lãng mạn hay hiện thực mà điều hấp dẫn đối với họ là toàn bộ bức tranh nhân gian của ông với sự hiện diện của đủ mọi hạng người, đặc biệt là những con người nghèo khổ. Ngày nay, khi lý thuyết về sự tiếp nhận văn học được vận dụng để nghiên cứu những vấn đề như bản chất, đặc trưng, chức năng, cấu trúc của tác phẩm... mà phía người đọc ngày càng phát hiện ra, trong khi phía người sáng tác có lúc không giải thích được thì vấn đề tìm hiểu tác phẩm Thạch Lam càng có ý nghĩa, giúp chúng ta phát hiện thêm những phẩm chất mới của một nhà văn đa tài này. Với ý nghĩa ấy, chúng tôi chỉ xin nêu ra một đặc điểm nổi bật trong thi pháp truyện ngắn của Thạch Lam. Đó là đặc điểm không gian nghệ thuật-một mặt quan trọng để nhà văn thể hiện tư tưởng và quan niệm nghệ thuật về con người.

Có thể thấy hầu hết truyện ngắn của Thạch Lam đều sử dụng không gian hiện thực hằng ngày làm môi trường cho nhân vật hoạt động. Nhưng không gian hiện thực ở đây được bó hẹp lại trong không gian đời tư, không gian cá nhân chứ không phải trong không gian xã hội rộng lớn, nên không gian càng dồn nén, thu nhỏ, đông lại, càng hiu hắt hơn. Chính không gian hẹp đó, nhân vật bộc lộ bản chất, hành vi, suy nghĩ của mình một cách cụ thể, chân thật nhất-và khi họ thấy bất lực trước hoàn cảnh thì lập tức ngôn ngữ độc thoại, ngôn ngữ giấc mơ hiện ra, khi ấy không gian hồi tưởng xuất hiện. Không gian hẹp mà Thạch Lam quan tâm miêu tả giúp cho nhân vật tự vấn, tự ý thức để đối chiếu, so sánh niềm vui, nỗi buồn của mình trong từng thời gian một cách cụ thể. Dung (truyện ngắn “Hai lần chết”) hiểu rõ nỗi bất hạnh của mình, cứ sau mỗi lần vùng vẫy, ước mơ thì lại bị nhấn chìm xuống đáy, nhưng khổ nỗi, không thể chết được, dù toại nguyện mà lại cứ phải sống trong buồn đau, trói buộc.

Bi kịch của Dung trong truyện ngắn "Hai lần chết" càng bi kịch hơn dẫu nàng đã quyết định kết liễu cuộc đời để được giải thoát. Nhưng có được đâu, nước mắt tủi buồn lăn trên má khi “Dung ngậm ngùi nghĩ đến cái chết của mình. Lần này, về nhà chồng, mới hẳn là chết đuối, chết không bấu víu vào đâu được”.

Thạch Lam là nhà văn nhân đạo chủ nghĩa. Ông không thể không an ủi và mong muốn con người được sung sướng và hạnh phúc. Lòng nhân ái ấy bàng bạc trong tác phẩm của ông, hé ra một chút ánh sáng và hy vọng cho con người, dù mong manh. Đó là điều mà Thạch Lam hằng tâm niệm: “Văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có thể vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn”.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 11 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo