Hãy thiết kế một bài thuyết trình ngắn về triển vọng hội nhập quốc tế của Việt Nam trong thời gian tới và trình bày cho thầy, cô, các bạn cùng biết.
Bằng cách nhấp vào Đăng nhập, bạn đồng ý Chính sách bảo mật và Điều khoản sử dụng của chúng tôi. Nếu đây không phải máy tính của bạn, để đảm bảo an toàn, hãy sử dụng Cửa sổ riêng tư (Tab ẩn danh) để đăng nhập (New Private Window / New Incognito Window).
(*) Tham khảo: Triển vọng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
► Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trong triển khai hội nhập kinh tế quốc tế
Hiệp định Thương mại tự do (FTA) thế hệ mới có phạm vi rộng hơn, vượt ra ngoài lĩnh vực thương mại, dịch vụ, đầu tư và đề cập nhiều đến những vấn đề phi thương mại như thể chế, pháp lý trong các lĩnh vực về lao động, môi trường, sở hữu trí tuệ, doanh nghiệp (DN) và mua sắm chính phủ… Dưới ảnh hưởng rất mạnh về thể chế của các FTA này khi đi vào có hiệu lực, Việt Nam sẽ có cơ hội cơ cấu lại xuất, nhập khẩu cho lành mạnh hơn và tránh phụ thuộc quá mức vào một thị trường. Qua đó nâng cao kim ngạch hai chiều và đa chiều với các nước thành viên.
Cơ hội đối với Nhà nước.
Việc ký kết và phê chuẩn Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) cùng với Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và EU (EVFTA) được kỳ vọng là sẽ mang tới làn sóng hội nhập thứ hai, mạnh mẽ hơn cho nền kinh tế Việt Nam. Khác với các FTA thế hệ trước vốn chủ yếu quan tâm ảnh hưởng tới chính sách thuế quan tại biên giới, các FTA thế hệ mới quy định nhiều cam kết liên quan trực tiếp tới thể chế và chính sách pháp luật quốc gia.
Đối tác của Việt Nam trong các FTA này đều là những đối tác lớn, như: EU, Nhật Bản, Hàn Quốc… Do đó, giai đoạn hội nhập mới này không chỉ tác động mạnh và toàn diện tới triển vọng phát triển thị trường của các DN mà còn tới cả môi trường kinh doanh và hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đây cũng là cơ hội để tái cơ cấu sản xuất nền kinh tế với việc tăng cường phát triển chuỗi cung ứng quốc gia, tăng cường tỷ lệ nội địa hóa và gia tăng phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ.
Cơ hội đối với DN.
– Khác với các thị trường truyền thống của Việt Nam, vốn là Trung Quốc và các nước ASEAN với nhiều điểm tương đồng về cơ cấu hàng hóa, sự cạnh tranh về chất lượng và giá cả dẫn tới thâm hụt thương mại lớn, các FTA thế hệ mới là cơ hội giúp DN Việt Nam tiếp cận các thị trường châu Âu, châu Mỹ với cơ cấu hàng hóa nghiêng về các sản phẩm máy móc kỹ thuật cao, vừa ít cạnh tranh với hàng hóa Việt Nam, vừa cung cấp những mặt hàng máy móc thiết bị mà Việt Nam còn thiếu. Tuy nhiên, đây cũng là những thị trường vô cùng khó tính. Các DN Việt Nam sẽ phải thực sự thay đổi về tư duy, mô hình kinh doanh cũng như hạ tầng kỹ thuật để có thể đáp ứng với những tiêu chuẩn ngặt nghèo của các thị trường này.
– Khi các hàng rào bảo hộ được gỡ bỏ, lợi thế tương đối và phân công lao động quốc tế sẽ có bước chuyển dịch. Với những thuận lợi về vị trí địa lý, kinh tế mở, nền chính trị ổn định, đặc biệt là nguồn lao động dồi dào, Việt Nam sẽ có lợi thế cao trong những ngành sản xuất yêu cầu nhiều nhân công như: dệt, may, giày dép, điện tử, hàng tiêu dùng, nông nghiệp công nghệ cao… Những bước tiến lớn về khoa học – công nghệ (KHCN) cũng sẽ mở ra những hướng đi mới về phương thức kinh doanh, quản lý.
– Các nước tiếp tục cắt giảm thuế theo như cam kết tạo ra cơ hội cạnh tranh hàng hóa. Thị trường trong nước trở nên dồi dào và phong phú hơn với các sản phẩm ngoại. Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam cũng được tăng sức cạnh tranh về giá, các DN Việt Nam sẽ được mở thêm nhiều cánh cửa cho thị trường xuất khẩu. Điều này không chỉ tạo thêm động lực cho sản xuất mà còn mở rộng thị phần kinh doanh cho các DN trong nước.
– Việt Nam mở cửa với một lộ trình rõ ràng. Việc thể chế kinh tế thị trường được đẩy mạnh hoàn thiện hóa và đổi mới mô hình tăng trưởng sẽ giúp các DN thuận lợi hơn trong việc phát triển kinh doanh và thị trường Việt Nam sẽ thu hút được nhiều vốn đầu tư hơn từ nước ngoài.
Thách thức từ hội nhập kinh tế quốc tế
Mặc dù có nhiều bước phát triển nhảy vọt, song nền kinh tế Việt Nam vẫn còn khiêm tốn so với các nước trong khu vực và trên thế giới; tiềm lực kinh tế của Việt Nam còn yếu, nền kinh tế vẫn còn “mỏng manh” trước những tác động tiêu cực từ hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT); lực lượng lao động còn thiếu kinh nghiệm, chưa thích ứng được với những yêu cầu của thời kỳ mới, cụ thể:
– Công tác nghiên cứu, dự báo những biến động của nền kinh tế thế giới còn chưa tương xứng với yêu cầu của HNKTQT. Cho đến nay, chiến lược HNKTQT mà Việt Nam đưa ra vẫn chưa được toàn diện, cụ thể, phù hợp với điều kiện chung của đất nước dẫn đến việc chưa tận dụng được hết lợi ích của HNKTQT trong việc làm tăng nguồn lực cho phát triển kinh tế, thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước1.
– Trình độ phát triển khoa học – kỹ thuật còn kém, đặc biệt là khoa học ứng dụng chậm phát triển. Quá trình chuyển giao công nghệ chậm, ít công nghệ mới. Lao động có chuyên môn còn thiếu.
– Năng lực cạnh tranh của sản phẩm, DN và của cả nền kinh tế còn thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực. Những lợi thế lớn của DN như tỷ lệ sử dụng lao động cao, giá lao động thấp đang bị cạnh tranh gay gắt từ các nước trong khu vực, tài nguyên thiên nhiên cũng sẽ dần mất đi.
– Với các FTA thế hệ mới mà Việt Nam đang và sẽ tham gia, các quy tắc xuất xứ đều theo định hướng gia tăng giá trị tại Việt Nam trong các sản phẩm xuất khẩu với các thành viên khu vực FTA. Đây là một vấn đề bất lợi vì nước ta chủ yếu nhập khẩu nguyên phụ liệu từ nước ngoài để gia công hàng xuất khẩu. Vì vậy, nếu không chuyển đổi vùng nguyên liệu, các sản phẩm hàng hóa của Việt Nam sẽ không được hưởng các ưu đãi thuế. Ngoài ra, các tiêu chuẩn kỹ thuật như: bao bì, đóng gói, nhãn mác, dư lượng kháng sinh và dư lượng thuốc bảo vệ thực vật là những rào cản chính ngăn cản hàng nông sản Việt Nam ra nước ngoài. Những vấn đề này cần sự phối hợp của các cấp chính quyền, DN xuất khẩu, nhập khẩu và người dân để xây dựng chuỗi cung ứng nhất quán, đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật phục vụ xuất khẩu.
► Triển vọng thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế trong 10 năm tới
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh Hội nhập kinh tế quốc tế trên mọi tầng nấc hợp tác, trong đó Cộng đồng ASEAN giữ vai trò trọng tâm.
Trải qua hơn 30 năm đổi mới, công tác đối ngoại Việt Nam ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu, nâng tầm cả ở cấp song phương, khu vực, liên khu vực và quốc tế. Trong số 200 quốc gia và vùng lãnh thổ có quan hệ thương mại với Việt Nam, có 28 thị trường xuất khẩu với kim ngạch trên 1 tỷ USD năm 20172. Việt Nam cũng đã tham gia ký kết và đàm phán 16 FTA, trong đó có 4 hiệp định song phương và 12 hiệp định đa phương ở tầm khu vực và toàn cầu, bao phủ 55 nước và thị trường trên thế giới 2.
Tiến trình đàm phán FTA tiếp tục được đẩy mạnh. Sau thành công khi CPTPP được đi vào thực thi, Việt Nam đang chuyển sự tập trung sang đẩy mạnh việc ký kết FTA với EU – một FTA thế hệ mới khác với đối tác xuất khẩu lớn thứ hai của nước ta. Việc thực thi các tiêu chuẩn của ILO đặt ra nhiều vấn đề về mặt thể chế nhưng sẽ không thể ngăn cản được tiến trình HNKTQT của Việt Nam. Ngoài ra, tiến trình đàm phán các FTA khác cũng đang được triển khai, tăng cường kết nối về mặt kinh tế của Việt Nam với nhiều đối tác hơn nữa.
Đối ngoại đa phương trở thành một trụ cột quan trọng trong đường lối đối ngoại của Việt Nam3. Năm 2020, Việt Nam một lần nữa giữ vai trò Chủ tịch ASEAN với những trọng trách lớn trong việc mở rộng hợp tác và phát triển Cộng đồng kinh tế AEC, đóng vai trò nòng cốt, đẩy mạnh thực hiện thành công Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN 2025, nâng cao khả năng thích ứng của ASEAN trước những đổi thay của môi trường khu vực và quốc tế, giữ vững vai trò, vị thế của ASEAN ở khu vực cũng như phát huy vai trò của ASEAN ở tầm toàn cầu. Đây được đánh giá là phép thử cho sự trưởng thành, là cơ hội tốt để phát huy khả năng của Việt Nam trong việc dẫn dắt Cộng đồng ASEAN, quảng bá đất nước để khu vực và thế giới hiểu hơn về Việt Nam4.
Bên cạnh đó, Việt Nam trở thành thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc nhiệm kỳ 2020 – 2021. Đây là lần thứ hai Việt Nam ứng cử vị trí này và hiện tại đang là ứng cử viên duy nhất từ nhóm nước khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Có thể nói, đây là dịp để Việt Nam thể hiện tiếng nói ngày càng có trọng lượng tại ASEAN, thể hiện các kỹ năng ngoại giao mềm và tăng cường HNKTQT. Là một thành viên của Hội đồng Bảo an, nước ta sẽ có nhiều cơ hội hơn để tham gia vào việc quyết định các vấn đề quan trọng liên quan đến khu vực và thế giới.
Thứ hai, hội nhập kinh tế sâu rộng và đi vào triển khai các cam kết tiêu chuẩn cao.
Chỉ thị 26/CT-TTg ngày 04/9/2018 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh HNKTQT theo hướng hiệu lực và hiệu quả hơn có nêu: “tiếp tục chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện, trong đó hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm, hội nhập trên các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế”. Theo đó, HNKTQT tiếp tục là trọng tâm của tiến trình hội nhập quốc tế. Đồng thời, mở rộng nội hàm hội nhập quốc tế sang đẩy mạnh hội nhập ở các lĩnh vực khác, với mục tiêu cuối cùng là hỗ trợ phát triển kinh tế.
Ngày 08/8/2018, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 25-CT/TW về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030. Đây là văn bản chỉ đạo đầu tiên của Đảng về công tác đối ngoại đa phương của đất nước, đưa đối ngoại đa phương thành một nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, là một định hướng chiến lược quan trọng hàng đầu và là một phương thức hiệu quả thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược – xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chỉ thị đã xác định mục tiêu của công tác đối ngoại đa phương là: “nỗ lực vươn lên đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt hoặc hòa giải tại các diễn đàn, tổ chức đa phương có tầm quan trọng chiến lược đối với đất nước”.
Thứ ba, phát triển khoa học – kỹ thuật và công nghệ số.
Trước sự nổi lên mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, Việt Nam nhắm tới một cơ hội để “đi tắt đón đầu”, tập trung vào các ngành khoa học – công nghệ (KHCN) tiên tiến và qua đó bắt kịp với trình độ phát triển của thế giới khi các quốc gia cạnh tranh bằng sáng tạo mà không phải chỉ bằng các yếu tố truyền thống như tự do thương mại, quy mô, kinh nghiệm, lao động hay vốn đầu tư. Mục tiêu phát triển hợp tác quốc tế về KHCN đến năm 2020 là đưa Việt Nam lọt vào nhóm 3 nước mạnh nhất về KHCN trong ASEAN, trong một số lĩnh vực KHCN Việt Nam sẽ đứng đầu ASEAN.
Để đưa những mục tiêu trên vào hiện thực, Việt Nam đã khởi động Chương trình “Made in Viet Nam 4.0” – sáng kiến thúc đẩy các ngành công nghiệp dựa trên chính sách mới, tư duy quản lý mới và những công nghệ mới. Năm 2018, Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp cùng các bộ, ngành tổ chức nhiều sự kiện quy mô quốc tế như Industry 4.0; Chương trình kết nối Mạng lưới đổi mới sáng tạo Việt Nam; Diễn đàn kinh tế thế giới về ASEAN; Ngày hội khởi nghiệp Đổi mới sáng tạo Quốc gia – Techfest 2018,… cùng hàng loạt các dự án hợp tác tại bộ, ngành, DN khác trong chương trình Mạng lưới đổi mới sáng tạo người Việt. Những hoạt động này thể hiện một cơ chế chính sách thu hút người tài của Đảng và Nhà nước, hoàn thiện dần môi trường pháp lý trong lĩnh vực KHCN.
Thứ tư, gia tăng vai trò đi đầu dẫn dắt xu thế Hội nhập kinh tế quốc tế
Với chủ trương tham gia HNKTQT với tâm thế chủ động, sẵn sàng đóng góp, xây dựng, đề xuất trong các sân chơi quốc tế, Việt Nam hướng tới việc trở thành một trong những nước đi đầu dẫn dắt xu hướng HNKTQT của thế giới. Hướng đi này vừa góp phần hoàn thiện thể chế và các yếu tố thúc đẩy hội nhập của nước ta, vừa giúp tăng cường thu hút vốn đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng và kinh tế – xã hội.
Vị thế của Việt Nam đã tăng lên đáng kể khi đã tổ chức thành công năm APEC 2017. Đặc biệt, có 4 sáng kiến mà Việt Nam đề xuất đã nhận được sự đồng tình của các thành viên APEC, trong đó tập trung vào hỗ trợ các quốc gia đang phát triển tiếp cận vốn, thị trường, tăng cường chuyển giao công nghệ và đào tạo nhân lực. Tuy nhiên, trọng tâm trong chính sách ngoại giao đa phương của Việt Nam trong thời gian tới là ASEAN với việc đảm nhận vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2020. Hiện tại, ASEAN đang là trung tâm hợp tác và liên kết quốc tế của khu vực được coi là động lực phát triển chính của kinh tế thế giới – khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Thứ năm, thông qua Hội nhập kinh tế quốc tế để làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, đặc biệt là các đối tác chủ chốt.
Sự ràng buộc về lợi ích dẫn tới hòa bình và hợp tác, tập trung phát triển kinh tế được cho là một trong những động lực thúc đẩy xu hướng HNKTQT của thế giới. Với hơn 50 đối tác cùng tham gia các FTA và hơn 200 đối tác thương mại trên khắp thế giới, Việt Nam cũng đã xây dựng được một mạng lưới hợp tác quốc tế rộng lớn. Trong khi đó, khu vực châu Á – Thái Bình Dương đang là một điểm nóng trong quan hệ quốc tế. Với vị trí địa kinh tế và địa chính trị quan trọng, thị trường đông dân với dân số trẻ và nền kinh tế phát triển năng động, khu vực này đang bị các cường quốc ra sức tranh giành ảnh hưởng.
Trong vòng hơn một thập kỷ qua, các cường quốc như Mỹ, Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Nhật Bản,… đều đưa ra những chính sách để tăng cường sự hiện diện của mình tại khu vực này. Tuy nhiên, trong bối cảnh hòa bình, hợp tác và phát triển kinh tế đang là xu thế chi phối quan hệ quốc tế, tranh giành ảnh hưởng đồng nghĩa với việc tăng cường hợp tác về kinh tế, quốc phòng – an ninh. Đây là cơ hội để tăng cường ràng buộc về lợi ích giữa Việt Nam và các nước đối tác, đặc biệt là khi các nước lớn đều là những đối tác quan trọng của nước ta.
Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) hội tụ 21 nền kinh tế thành viên đã trở thành động lực của tăng trưởng và liên kết toàn cầu, là trung tâm đầu tư, KHCN, đóng góp gần 50% tổng đầu tư, thương mại và gần 60% GDP toàn cầu. Đây cũng là khu vực có hơn một nửa trong số 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới và dự báo sẽ chiếm tỷ trọng gần 70% GDP toàn cầu vào năm 2050. Trên hết, APEC quy tụ 14 trong số 28 đối tác chiến lược đối tác toàn diện và các đối tác kinh tế, thương mại quan trọng hàng đầu của nước ta. Các đối tác trong APEC chiếm tới 75% kim ngạch xuất nhập khẩu, 78% tổng vốn đầu tư trực tiếp và 79% lượng khách du lịch quốc tế của Việt Nam. 14 trong 16 FTA mà ta đã, đang đàm phán và ký kết là với 17 trên 20 thành viên APEC5.
Được gọi một cái tên khác là Hiệp định ASEAN+6 do là hiệp định mở rộng của FTA giữa ASEAN và 6 nước đối tác đã từng ký FTA với ASEAN trước đây, Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện Khu vực RCEP hướng tới kết nối hai nền kinh tế lớn nhất khu vực là Nhật Bản và Trung Quốc với các nền kinh tế phát triển nhanh như Ấn Độ và Việt Nam. Chiếm tới gần một nửa dân số thế giới và khoảng 30% GDP toàn cầu, hiệp định này là cơ hội cho nền kinh tế Việt Nam được tiếp cận với một thị trường khổng lồ. Ngoài ra, tham gia Hiệp định này đều là đối tác quan trọng của Việt Nam, như: Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc và các nước ASEAN.
Với việc đẩy mạnh HNKTQT với các nước đối tác quan trọng, tăng cường ràng buộc về lợi ích, Việt Nam đã nhận được nhiều thành quả quan trọng: Việt Nam là một trong số ít các quốc gia được quyền đăng cai APEC hai lần; là ứng cử viên duy nhất từ nhóm các nước châu Á – Thái Bình Dương được đề cử ủy viên không thường trực tại Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc; có 69 quốc gia trên thế giới công nhận nền kinh tế thị trường của nước ta. Những kết quả này càng tạo động lực cho Việt Nam tăng cường hơn nữa HNKTQT, không chỉ với mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội mà còn là tăng cường vị thế quốc gia và vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế.
Tham gia Cộng đồng Lazi trên các mạng xã hội | |
Fanpage: | https://www.fb.com/lazi.vn |
Group: | https://www.fb.com/groups/lazi.vn |
Kênh FB: | https://m.me/j/AbY8WMG2VhCvgIcB |
LaziGo: | https://go.lazi.vn/join/lazigo |
Discord: | https://discord.gg/4vkBe6wJuU |
Youtube: | https://www.youtube.com/@lazi-vn |
Tiktok: | https://www.tiktok.com/@lazi.vn |
Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi
Vui | Buồn | Bình thường |