LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích khổ thơ đầu trong bài Sang thu của Hữu Thỉnh

1. Phân tích khổ thơ đầu trong bài Sang thu của Hữu Thỉnh
2. Những đặc sách trong bài thơ Viếng Lăng Bác của Viễn Phương
3. Cảm nhận và suy nghĩ của em về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải
Mong các bạn đừng lấy trên mạng tại mình cũng có mấy bài vậy rồi nên cần thêm ý, mong các bạn giúp đỡ, chúc các bạn thành công!
6 trả lời
Hỏi chi tiết
831
1
2
Nguyễn Nhật Thúy ...
17/03/2019 20:38:59
1.

Cuối hạ, thu đến mang theo những cảm xúc bất chợt để lại trong lòng người những bồi hồi, xao xuyến về một mùa thu nồng nàn, êm ái. Ngày hạ đi để nhường chỗ cho nàng thu dịu dàng bước tới, sự chuyển mình giữa hai mùa thật nhẹ nhàng và ngập ngừng như lưu luyến, vấn vương một cái gì đó của thời đã qua. Khoảnh khắc ấy thật đẹp, nhưng không phải ai cũng dễ dàng nhận thấy. Riêng nhà thơ Hữu Thỉnh thì khác, ông đã có một cái nhìn thật tinh tường, một cảm nhận thật sắc nét và một cách sống hòa hợp với thiên nhiên nên mới có thể vẽ lại bức tranh in dấu sự chuyển mình của đất trời qua bài thơ "Sang Thu" – linh hồn của cả bài thơ chỉ vẻn vẹn trong hai từ thế thôi, song ý nghĩa sâu sắc chất chứa trong hai từ ngắn ngủi ấy lại không hề ít. Và có lẽ những ý nghĩa đó, lại tập trung nhiều hơn vào khổ thơ đầu bài thơ:

"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về".

Dẫu biết rằng thời gian bốn mùa luôn luân chuyển hết xuân đến hạ, thu sang rồi đông tới, thế nhưng ta vẫn cảm thấy ngỡ ngàng khi quên đi nhịp sống sôi động hàng ngày mà lắng nghe tiếng mùa thu đi để cảm nhận thời khắc đặc biệt bước chuyển mùa của thiên nhiên. Sang thu của Hữu Thỉnh giúp ta chiêm ngưỡng lại những giây phút giao mùa tinh tế đầy ý vị mà bấy lâu nay ta hững hờ. Đó là lúc hồn ta run lên những cảm nhận dung dị.

Chỉ với bốn câu thơ ngắn mở đầu, Hữu Thỉnh đã đem đến cho chúng ta những cảm nhận sâu sắc về thiên nhiên. Những tín hiệu của mùa thu với những nét phác họa tài hoa: hương ổi, gió se, sương chùng chình giản dị mà hiện lên đầy gợi cảm. Không phải là sắc "mơ phai" hay hình ảnh "con nai vàng ngơ ngác" mà là hương ổi thân quen nơi vườn mẹ đã đánh thức những giác quan tinh tế nhất của nhà thơ:

"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se"

Từ "bỗng" được gieo lên trong niềm ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Từ bao giờ nhỉ, thu về? Tất cả đến với tác giả nhẹ nhàng, mà đột ngột quá, thu về với đất trời quê hương, với lòng người mà không hề báo trước. Để rồi trong giây phút ngỡ ngàng ấy, nhà thơ mới chợt nhận ra hương ổi. Vì sao lại là hương ổi mà không phải là các hương vị khác? Người ta có thể đưa vào bài thơ về mùa thu các hương vị ngọt ngào của ngô đồng, cốm xanh, hoa ngâu,... nhưng Hữu Thỉnh thì không. Giữa tiết trời cuối hạ đầu thu, ông nhận ra hương vị chua chua, ngòn ngọt của những quả ổi chín vàng ươm. Hương ổi, thứ hương thơm quê mùa, dân dã. Hương ổi không nồng nàn. Đó là thứ hương dìu dịu, nhè nhẹ. Hương vị ấy đơn sơ, mộc mạc, đồng nội, rất quen thuộc của quê hương. Thế mà ít ai nhận ra sự hấp dẫn của nó. Bằng cảm nhận tinh tế, bằng khứu giác, thị giác, nhà thơ đã chợt nhận ra dấu hiệu của thiên nhiên khi mùa thu lại về. Chúng ta thật sự rung động trước cái "bỗng nhận ra" ấy của tác giả. Chắc hẳn nhà thơ phải gắn bó với thiên nhiên, với quê hương lắm nên mới có được sự cảm nhận tinh tế và nhạy cảm như thế!

Dấu hiệu của sự chuyển mùa còn được thể hiện qua ngọn gió se mang theo hương ổi chín. Gió se là một làn gió nhẹ, mang chút hơi lạnh, còn được gọi là gió heo may. Ngọn gió se se lạnh, se se thổi, thổi vào cảnh vật, thổi vào lòng người một cảm giác mơn man, xao xuyến. Từ "phả" được dùng trong câu thơ mới độc đáo làm sao! "Phả" là một động tác mạnh gợi một cái gì đó đột ngột. Nó diễn tả được tốc độ của gió, vừa góp phần thể hiện sự bất chợt trong cảm nhận: hương ổi có sẵn mà chẳng ai nhận ra, thế mà Hữu Thỉnh đã bất chợt nhận ra và xao xuyến trước cái hương đồng gió nội ấy.

Câu thơ ngắn mà có cả gió cả hương. Hương là hương ổi, gió là gió se. Đây là những nét riêng của mùa thu vùng đồi trung du miền Bắc. Gợi được như vậy hẳn cái tình quê của Hữu Thỉnh phải đậm đà lắm. Câu thơ: "Bỗng nhận ra hương ổi. Phả vào trong gió se" còn có cái cảm giác ngỡ ngàng bối rối: bỗng nhận ra. Nhận ra hương ổi giống như một sự phát hiện nhưng ở đây là phát hiện ra mùi hương vẫn vương vấn mà bấy lâu nay con người hờ hững. Chính vì sự phát hiện ra cái gần gũi xung quanh mình cho nên con người mới có cảm giác ngỡ ngàng đôi chút bối rối ấy.

Không chỉ có "hương ổi' trong "gió se" mà tiết trời sang thu còn có hình ảnh:

"Sương chùng chình qua ngõ"

Một hình ảnh đầy ấn tượng. Sương được cảm nhận như một thực thể hữu hình có sự vận động – một sự vận động chậm rãi. Từ chùng chình gợi lên nhiều liên tưởng. Tác giả nhân hóa làn sương nhằm diễn tả sự cố ý đi chậm chạp của nó khi chuyển động. Nó bay qua ngõ, giăng bắc và giậu rào, vào hàng cây khô trước ngõ đầu thôn, làm ta như thấy một sự dùng dằng, gợi cảnh thu sống động trong tĩnh lặng, thong thả yên bình. Nó có cái vẻ duyên dáng, yểu điệu của một làn sương, một hình bóng của thiếu nữ hay của một người con gái nào đấy. Đâu chỉ có thế, cái hay của từ láy "chùng chình" còn là gợi tâm trạng sương dềnh dàng hay lòng người đang tư lự, hay tâm trạng của tác giả cũng "chùng chình"?.

Khổ thơ thứ nhất khép lại bằng câu thơ "Hình như thu đã về". Từ "hình như" không có nghĩa là không chắc chắn, mà là thể hiện cái ngỡ ngàng, ngạc nhiên và có chút bâng khuâng. Từ ngọn gió se mang theo hương ổi thơm chín, vàng ươm đến cái duyên dáng, yểu điệu của một làn sương cứ chùng chình không vội vàng trước ngõ, tác giả đã nhận dần nhận ra sự chuyển mình nhẹ nhàng nhưng khá rõ rệt của tiết trời và thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa bằng đôi mắt tinh tế và tâm hồn nhạy cảm của một thi sĩ yêu thiên nhiên, gắn bó với cuộc sống nơi làng quê.

Khổ thơ ngắn mà đã để lại cho ta biết bao rung động. Ta như cảm thấy một hồn quê, một tình quê đi về trong câu chữ làm lòng ta ấm áp. Hình ảnh quê hương như càng thêm gần gũi, yêu mến.

Mùa thu lặng lẽ và nhẹ nhàng. Những hình ảnh thơ cứ vương vấn mãi trong hồn. Có một cái gì thật êm, dịu dàng toát lên từ đoạn thơ ấy. Quả thực ta thấy lòng thanh thản vô cùng mà lại vô cùng nôn nao nhớ đến những miền quê xa vắng trong nắng thu khi đọc mấy câu thơ của Hữu Thỉnh.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
1
Nguyễn Nhật Thúy ...
17/03/2019 20:39:43
2.

Bác Hồ, Người là tình yêu thiết tha nhất trong lòng dân và trong trái tim nhân loại. Câu hát xúc động về Bác vẫn vang lên trong lòng chúng ta không khỏi khiến ta bùi ngùi, xúc động. Bác đã đi xa để lại cho dân tộc cả một niềm tiếc nhớ và kính yêu vô hạn. Đã biết bao nhà thơ khắc hoạ thành công tình cảm vô hạn của chúng ta dành cho Bác. Trong đó không thể không nhắc đến bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương.

Bài thơ không chỉ là nén hương thơm Viễn Phương thành kính dâng lên Bác Hồ kính yêu mà còn là khúc tâm tình sâu nặng mà nhà thơ thay mặt đồng bào miền Nam gửi đến Bác trong những ngày đầu độc lập. Ấn tượng đầu tiên là cách xưng hô rất thân thuộc, gần gũi của người con Nam Bộ với Bác:

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Hai tiếng con - Bác vang lên xoá nhoà khoảng cách giữa lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh với một người lao động cần lao. Nó trở thành mối quan hệ máu thịt giữa cha và con, đặc biệt đứa con ấy lại là đứa con của miền Nam xa cách. Viễn Phương ra thăm Bác là trở về bên người cha yêu dấu, tìm lại niềm hạnh phúc ấm lòng sau bao năm tháng cách xa. Vẻ đẹp đầu tiên nhà thơ nhận ra là hàng tre bát ngát, tượng trưng cho ý chí và sức mạnh quật cường của dân tộc. Niềm xúc động đã cất lên thành lời:

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.

Hàng tre quanh lăng Bác phải chăng là biểu tượng của cây cỏ mang màu sắc quê hương về đây hội tụ? Tre là một loài cây luôn vươn cao, đứng thẳng, hiên ngang trong bão táp mưa sa. Vì thế tre mang nhiều đặc điểm giống như đức tính của người Việt Nam ta: cần cù, chịu khó, hiên ngang, luôn hướng về cội nguồn. Hàng tre lăng Bác tượng trưng cho thế đứng vững vàng của toàn dân tộc. Giọng thơ bồi hồi tha thiết mà rạo rực, tự hào, kiêu hãnh.

Nét đặc sắc của bài thơ là nhà thơ đã vận dụng rất sáng tạo và đặc sắc nghệ thuật ẩn dụ, hoán dụ, tạo ra một loạt hình ảnh, hình tượng lớn lao, đẹp đẽ, sáng ngời:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.

Bác là mặt trời hay mặt trời là Bác? Có lẽ là cả hai. Người cùng như mặt trời vĩnh hằng và ấm áp. Người đem đến cho nhân loại tình yêu thương, lòng nhân ái và nền độc lập. Hình ảnh mặt trời làm sáng cả câu thơ. Bác là nguồn ánh sáng làm hồi sinh sự sống. Nhờ có Bác mà dân tộc Việt Nam đã rũ bùn đứng dậy sáng loà (Nguyễn Đình Thi), đất nước không còn cảnh:

Con đói lả ôm lưng mẹ khóc

Mẹ đợ con đấu thóc cầm hơi

(Tố Hữu)

Người người biết ơn Bác, đời đời ngợi ca Bác bằng những lời ca, ý thơ đẹp đẽ:

Người rực rỡ một mặt trời cách mạng

Còn đế quốc là loài dơi hốt hoảng.

(Tố Hữu)

Mặt trời lặn mặt trời mang theo nắng

Bác ra đi để ánh sáng cho đời.

(Phạm Tiến Duật)

Cảm động sao những tấm lòng thành kính. Những tấm lòng như tấm lòng của Viễn Phương:

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...

Hình ảnh dòng người đi trong thương nhớ là một phát hiện rất mới, chứa đựng nhiều ý nghĩa và cảm xúc. Không gian nơi Bác nằm dường như là không gian của tình thương nỗi nhớ, không gian của tấm lòng thành kính, thiêng liêng. Và đây nữa, tràng hoa dâng Bác vừa là hình ảnh thực vừa mang nghĩa tượng trưng. Đó là tình đoàn kết, tương thân tương ái của nhân dân ta, giúp dân tộc đứng vững trong những cơn phong ba bão táp. Những người con hôm nay không chỉ dành cho vị cha già lòng biết ơn thành kính mà còn tự hào dâng lên Người những chiến công trong thời bình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Mạch cảm xúc được phát triển theo từng bước đi của nhà thơ vào lăng viếng Bác. Nỗi xúc động đã thổn thức trong lòng người con từ khi hàng tre bên lăng còn xa xa, cho đến khi cùng dòng người bước tới rồi và nghẹn ngào khi được nhìn thấy Bác:

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Với chúng ta Bác không bao giờ mất, Bác mãi trường tồn cùng sông núi. Bác nằm đó trong giấc ngủ bình yên, một giấc ngủ nhẹ nhàng, thanh thản. Một vẻ đẹp rất đỗi thanh cao đang toả sáng. Sự thanh cao đó phải chăng là một chân lí nhân cách của Người? Dù là trong thơ văn hay trong cuộc sống, giữa Bác và vầng trăng luôn có sự gặp gỡ, hoà hợp và đồng điệu.

Viễn Phương cũng như những người con khác ước mơ được ra thăm Bác dù chỉ một lần. Hôm nay nỗi mong mỏi đã trở thành hiện thực nhưng sao nhà thơ lại thấy nhói đau:

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim!

Dẫu biết rằng Bác sống mãi trong tâm hồn dân tộc, sự nghiệp cách mạng và con đường cứu nước sẽ mãi là kim chỉ nam cho mọi hành động của dân tộc nhưng nhà thơ không thể nào kìm nén cảm xúc. Sự rung động đến nhói trong tim là một tình cảm chân thành của nhà thơ đối với Bác.

Cố dồn nét niềm xúc động trong lòng nhưng nghĩ đến lúc phải rời xa dòng cảm xúc ấy vội trào ra, nức nở nghẹn ngào theo dòng nước mắt:

Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

Giọng thơ bỗng trở nên gấp gáp, vội vàng thể hiện sự cuống quýt trong tâm tưởng người con nơi xa. Viễn Phương muốn làm tất cả những gì tốt đẹp nhất để dâng lên Người. Đó là ước nguyện được làm con chim nhỏ bé, ngày ngày bên Bác kính dâng lên những bản nhạc âm vang của tâm hồn - tiếng hót. Đó là ước nguyện được làm con chim nhỏ bé, ngày ngày bên Bác kính dâng lên những bản nhạc âm vang của tâm hồn - tiếng hót. Đó là ước nguyện làm đoá hoa bình dị lặng lẽ toả hương thơm ngát, tô điểm cho giấc ngủ của Người, vẫn chưa đủ, nhà thơ còn ước muốn là một cây tre trung hiếu gìn giữ và bảo vệ giấc ngủ bình yên nhẹ nhàng cho Bác. Điều đặc biệt là kết thúc đầu cuối tương ứng trong bài thơ. Hình ảnh cây tre mở đầu bài thơ và vẫn là hình ảnh cây tre ấy khép lại bài thơ tạo ra hình ảnh có giá trị đặc biệt. Phải chăng đằng sau bóng tre râm mát ấy là tấm lòng, là tâm hồn của cả dân tộc lặng lẽ và thành kính dâng lên Bác. Điệp ngữ muốn làm được sử dụng liên tiếp trong ba dòng thơ cuối cùng càng khẳng định ước muốn, sự tự nguyện của những con người muốn chăm lo cho giấc ngủ của Bác Hồ. Cũng có thể xem những điệp ngữ này là những nút nhấn cho thấy sự lưu luyến, bồi hồi, bối rối của nhà thơ. Làm sao có thể không xúc động khi trong lòng ta hình ảnh Bác Hồ vẫn luôn sáng soi rực rỡ và ấm nồng:

Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta

Ta bỗng lớn ở bên Người một chút.

Bài thơ khép lại mà dư âm cảm xúc của nó còn trong tâm trí ta. Nhà thơ đã truyền cảm xúc vào lòng người đọc bao thế hệ với một ý nguyện chân thành. Chúng ta hôm nay được sống trong yên vui hoà bình, chúng ta cần phải ghi nhớ công lao to lớn của Bác và của nhân dân. Chúng ta hãy rèn luyện để xứng đáng với niềm tin của Bác, xứng đáng là một cây tre trung hiếu bên Bác.

1
1
Nguyễn Nhật Thúy ...
17/03/2019 20:40:54
3. Thanh Hải là một nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Là con người tài hoa, giàu sức sống nghệ thuật và lắng nghe được nhiều âm thanh của cuộc sống, Thanh Hải đã dâng cho đời nhiều áng thơ có giá trị. Ngòi bút của ông đã góp phần xây dựng nền văn học cách mạng ở miền Nam từ những ngày đầu.
Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ là tâm sự của ông trong những ngày cuối của cuộc đời. Tình cảm dạt dào và suy nghĩ sâu lắng trong tâm tư của ông đã gởi gắm vào bài thơ. Đó là tình yêu đất nước bao la, niềm yêu mến thiết tha đối với cuộc sống đang bước vào thời kì xây dựng.
Mở đầu bài thơ, Thanh Hải đưa ta về với thiên nhiên tươi đẹp, về với đất trời đang bước vào mùa xuân mới:
Mọc giữa dòng sông xanh,
Một bông hoa tím biếc,
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời.
Mùa xuân được miêu tả bằng những hình ảnh dòng sông xanh, bông hoa tím biếc cùng với tiếng hót trong trẻo của chim chiền chiện. Cảnh mùa xuân ấy gợi ra một không gian tươi mát, dịu dàng và đằm thắm. Cảnh vật mùa xuân đã làm tác giả dâng lên một niềm cảm xúc. Tiếng ơi trong câu thơ là hô ngữ, là từ gợi cảm biểu lộ sự thân thiết, yêu thương. Hai tiếng hót chi là cách, nói dịu ngọt của người dân xứ Huế đã làm tăng tính biểu cảm của vần thơ. Tác giả đã mượn tiếng chim hót để biểu lộ cảm xúc của mình về bức tranh mùa xuân. Tác giả không chỉ biểu lộ sự trân trọng, nâng niu những cái đẹp trong mùa xuân ấy:
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
Động từ hứng đã diễn tả được tâm trạng của tác giả trước cảnh sắc mùa xuân. Có ai ngờ tiếng chim hót vang trời lại đọng thành giọt long lanh rơi xuống? Phải chăng đây không chỉ là âm thanh của tiếng chim mà là âm thanh của mùa xuân, âm thanh của cuộc sống đang khơi dậy trong lòng tác giả? Tâm hồn nhà thơ đang chan hòa cùng cuộc sống, cùng mùa xuân tươi đẹp một cách bất ngờ.
Từ mùa xuân của đất trời, cảm xúc thơ chuyển sang mùa xuân của đất nước một cách tự nhiên:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trài dài nương mạ.
Đây là hình ảnh của đất nước với hai nhiệm vụ chiến lược: chiến đấu và sản xuất. Mùa xuân của đất nước hòa cung niềm vui trong chiến đấu và niềm vui trong lao động sản xuất. Lộc là hình ảnh của mùa xuân. Đó là chồi non, cành biếc mơn mởn. Lộc là sự sinh sôi, nảy nở, là sức sống mãnh liệt đang vươn lên. Trong chiến đấu, lộc giắt đầy quanh lưng là hình ảnh người lính khoác trên lưng vành lá ngụy trang xanh biếc để che mắt quân thù và còn là biểu tượng của sức sống mùa xuân, là sức mạnh của dân tộc. Trong sản xuất, lộc trải dài nương mạ là hình ảnh của sự lao động cần cù đã làm nên một màu xanh bát ngát ruộng đồng. Người nông dân đã góp phần tô điểm cho mùa xuân đất nước. Hậu phương và tiền tuyến luôn song hành. Người cầm súng và người nông dân lao động, đều đem đến mùa xuân cho đất nước giữa mùa xuân của đất trời. Cả dân tộc đang bước vào mùa xuân với tâm thế khẩn trương và hào hứng:
Tất cả như hổi hả
Tất cả như xôn xao.
Hối hả, xôn xao là những từ láy diễn tả sự gấp gáp, khẩn trương, náo nhiệt. Cặp từ láy ấy cùng với điệp ngữ tất cả như... làm cho câu thơ vang lên nhịp diệu vui tươi, mạnh mẽ. Đó là hình ảnh đất nước và dân tộc đang bước vào mùa xuân của thời đại mới, thời đại Hồ Chí Minh. Trong mùa xuân tươi đẹp ấy tác giả không quên suy ngẫm về quá khứ của đất nước và cội nguồi dân tộc:
Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.
Tác giả đã bộc lộ niềm cảm thụ và tự hào về đất nước. Chặng đường lịch sử đã qua với bao gian lao, vất vả. Bốn nghìn năm lập quốc tỏa sáng nền văn hiến Đại Việt, sức mạnh dân tộc được khẳng định, đất nước vẫn trường tồn và đi lên. Đất nước như vì sao là sự so sánh đầy ý nghĩa. Sao là nguồn sáng vô tận, là vẻ đẹp của vũ trụ, vẻ đẹp vĩnh hằng trong không gian và thời gian. Đây là niềm tự hào về đất nước Việt Nam anh hùng, bất diệt.
Đất nước ấy luôn lớn mạnh, đi lên từng ngày. Hành trình đi tới tương lai của đất nước vẫn không ngừng, cứ đi lên là sự thể hiện chí khí, quyết tâm của dân tộc Việt Nam.
Trước mùa xuân của thiên nhiên, mùa xuân của đất nước, sự đi lên của cuộc sống, tác giả khát khao được hòa nhập vào cuộc sống của đất nước:
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến.
Điều tâm niệm của tác giả thật chân thành sâu sắc. Con chim hót, một cành hoa là những hình ảnh đẹp của thiên nhiên. Một nốt trầm trong giàn hợp xưởng là âm thanh mà mọi người đều thích nghe. Tác giả muốn làm việc, muốn cống hiến cho cuộc đời, cống hiến cho đất nước. Điệp từ một trong đoạn thơ diễn tả sự ít ỏi, khiêm tốn nhưng hình ảnh con chim, cành hoa, nốt trầm cuối cùng dã dồn vào hình ảnh thật đặc sắc:
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
Khát vọng của tác giả tuy ẩn chứa sự khiêm nhường qua hình ảnh nho nhỏ, lặng lẽ nhưng thể hiện một tiếng lòng cao cả, thể hiện một nhân sinh quan cao đẹp: phải cống hiến cho đất nước, dù là nhỏ bé, và phải không ngừng cống hiến cho cuộc đời. Mỗi con người hãy là một mùa xuân nho nhỏ để làm nên mùa xuân bất diệt của đất nước. Một xã hội tốt đẹp thì mỗi con người phải tốt đẹp. Đây là điều tâm niệm và khát vọng của nhà thơ trước lúc đi xa vĩnh biệt cuộc đời.
Cảm xúc chân thành của nhà thơ không chỉ dừng lại ở khát vọng về cuộc sống, tâm niệm về cuộc đời, tình cảm đối với quê hương, đất nước mà còn thể hệ qua khúc hát yêu thương:
Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.
Nam ai và Nam bình là hai điệu dân ca Huế, phách tiền là một nhạc cụ dân tộc điểm nhịp cho lời ca. Hình ảnh xin hát diễn tả tình yêu thương, gắn bó với quê hương, sự khao khát về cuộc sống mùa xuân. Tiếng hát ở đây cũng là tiếng lòng của tác giả, nó ngọt ngào sâu lắng và gây được sự đồng cảm với tất cả mọi người.
Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải là một bài thơ đặc sắc. Với thể thơ năm chữ, giọng thơ lúc mạnh mẽ, lúc tha thiết ngân vang, âm hưởng nhẹ nhàng xuyên khổ thơ, tác giả đã bộc lộ cảm xúc trước mùa xuân của thiên nhiên, đất nước và khát vọng đẹp đẽ muôn được dâng hiến cho cuộc đời trước lúc đi xa.
1
0
doan man
17/03/2019 20:45:21
1. Phân tích khổ thơ đầu trong bài Sang thu của Hữu Thỉnh
______________
“Sang thu” là một áng thơ xinh xắn dâng tặng Nàng Thu của một thi nhân - một thi nhân yêu quý mùa thu như bao thi nhân khác - Hữu Thỉnh. Bài thơ có khổ thơ mở đầu thật hay:
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về".
Những câu thơ mở đầu bài thơ giản dị đến bất ngờ:
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se".
“Bỗng” là bỗng nhiên, là bất ngờ, bất chợt. Đặt chữ “bỗng” ở đầu khổ thơ, đầu bài thơ để tất cả giác quan của ta được đánh động, phải giật mình mà chú ý đón nhận mọi biến đổi của đất trời. Biến đổi đầu tiên thu hút sự chú ý của nhà thơ là mùi hương nồng nàn của trái ổi chín thơm lừng. Ổi đã bắt đầu ủ mình để chín tự bao giờ và cũng lặng lẽ toả hương tự bao giờ nhưng vào khoảnh khắc này hương ổi mới đủ nồng nàn đánh thức giác quan của thi nhân. Hương thơm ấy rất mạnh, rất nồng nàn, ngào ngạt có vậy mới “phả vào trong gió se”. Ổi phải chín đến nhường nào, thơm ngon đến nhường nào hương thơm của nó mới đủ mạnh để tạo ra một sự lan toả như vậy trong không gian. Thứ hương thơm ấy lại lan toả trong làn gió se nhè nhẹ ren rét. “Gió se” là gió heo may, chúng đến với nhân gian vào mỗi dịp đầu thu làm tẽ tê, gai gai những cánh tay trần mềm mại. Trước Cách mạng, Xuân Diệu đã từng mang gió se đến cho người đọc với những thoáng rùng mình ớn lạnh: “Những luồng run rẩy rung rinh lá”. Nhưng câu thơ của Hữu Thình lại dắt mùa thu đến bên ta êm ái, dịu dàng biết bao. Viết về những làn sương mùa thu, nhà thợ cũng có cách viết thật duyên dáng: “Sương chùng chình qua ngõ”. “Chùng chình” là cố ý làm chậm lại. Thủ pháp nhân hoá đã biến sương thành những cô bé, cậu bé nghịch ngợm đung đưa náu mình trong ngõ xóm, chùng chình chẳng muốn tan đi.
Làng quê yêu mến dìu bước chân thi nhân đi từ hương ổi đến gió se... Rồi khi lạc giữa làn mây sớm chùng chình thì nhà thơ không nén nổi niềm xúc động, ông khe khẽ thì thầm: “Hình như thu đã về”. Từ “hình như” diễn tả tâm trạng ngỡ ngàng băn khoăn rất tinh tế của nhà thơ khi ngỡ ngàng nhận ra “thu đã về”.
Khổ thơ đầu tiên của bài thơ “Sang thu” đặc biệt dịu dàng tinh tế, nó diễn tả những biến đổi tinh vi của đất trời và lòng người trong thời khắc giao mùa được chờ đợi rất nhiều trong năm: từ hạ chuyển sang thu. Khổ thơ đã góp phần quan trọng tạo nên bài thơ “Sang thu”, một áng thơ thu duyên dáng và tài tình trong thi đề mùa thu quen thuộc của văn học Việt Nam.
1
0
doan man
17/03/2019 20:46:40
Những đặc sắc trong bài thơ Viếng Lăng Bác của Viễn Phương
_______
Bác Hồ là nguồn cảm hứng vĩ đại cho các nhà thơ nhà văn. Cuộc đời của Người chính là bản thiên hùng ca vô cùng tha thiết về nhân cách cũng như tinh thần yêu nước bất diệt. Đã có biết bao nhiêu nhà thơ khắc họa thành công hình tượng của Bác trong đó không thể bỏ qua bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương.
Viếng lăng Bác không chỉ đơn giản là nén hương thơm mà đứa con từ miền Nam xa xôi dâng lên Bác Hồ kính yêu mà nó còn là khúc tình ca sâu đậm mà đồng bào miền Nam nói chung gửi đến Người – vị cha già vĩ đại của dân tộc. Mở đâu bài thơ nhà thơ gây ấn tượng mạnh bởi cách xưng hô vô cùng ngọt ngào gần gũi:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Tiếng xưng hô thân thương trìu mến gọi Bác xưng con đã xóa tan cái khoảng cách xa xôi giữa vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc với người dân lao động cần lao. Nó đã trở thành mối quan hệ vô cùng thân thiết và khăng khít như máu thịt giữa con người với con người. Bài thơ được sáng tác vào những năm đầu của độc lập, nên đây có thể được coi là một cuộc hành hương tìm về cội nguồn của người con miền Nam ra thăm người cha yêu dấu sau bao nhiêu năm đằng đẵng xa cách. Hàng tre chính là hình ảnh thân quen hiện lên trong trí óc nhà thơ:
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Hàng tre chính là biểu tượng của cây cỏ mang màu sắc của một vùng quê hương bản xứ. Nói đến loài tre là nhắc đến một trong những loài cây thân mọc thẳng, hiên ngang dù có phải hứng chịu bao nhiêu sự va đập của thiên nhiên. Vì thế nói đến hàng tre còn ẩn dụ một hình ảnh đó chính là đức tính quý báu của người dân Việt Nam: cần cù, chịu khó và hiên ngang. Hàng tre đứng bên lăng Bác là vẻ đẹp đại diện cho khí phách cả một dân tộc. Giọng thơ ở đây nghe rất hào sảng và đầy kiêu hãnh tự hào.
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Cái hay ở đây đó chính là việc nhà thơ đã sử dụng rất nhuần nhuyễn và hiệu quả các biện pháp ẩn dụ hoán dụ độc đáo. Nó tạo nên một hình ảnh có sức gợi cảm gợi tả mãnh liệt.
MẶt trời ở trong lăng ở đây chính là Bác Hồ - vị cha già kính yêu của người dân Việt Nam nhiều thế hệ. So sánh mặt trời thiên nhiên với Bác quả là không sai. Nếu như mặt trời thiên nhiên mang đến cho con người vạn vật sự sống đâm chồi kết trái thì Bác chính là hi vọng chính là người đưa đường dẫn lối cho các con vượt qua hết phong ba bão tố của con đường cách mạng. Để muôn dân tìm lại được tự do sau những ngày gông cùm xiềng xích.
Đến đây ta chợt nhớ đến hai câu thơ nhà thơ Tố Hữu viết về Bác như sau:
Người rực rỡ một mặt trời cách mạng
Còn đế quốc là loài dơi hốt hoảng.
Người con tiếp tục tỏ lòng thành kính đối với Người :
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...
Hình ảnh dòng người đi trong thương nhớ được xem là một phát hiện vô cùng vĩ đại của nhà thơ. Đó không chỉ là không gian nơi Bác nằm mà nó còn là không gian của lòng xót thương, sự thành kính và biết ơn sâu sắc. Tràng hoa dâng bác ở đây chính là hình ảnh tương thân tương ai là tấm lòng các con ở xa gửi ra viếng người.
Mạch cảm xúc như vỡ òa theo từng bước chân của con khi đến gần người cha mình hằng yêu quý. Để rồi nghẹn ngào trở thành một thứ cảm xúc trực trào tận sâu trong tâm khảm:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Người nằm trong lăng với một giấc ngủ vô cùng bình yên. Đến lúc này đứa con vẫn không thể tin là Người đã rời xa chúng con. Với con Người chỉ đang ngủ một giâc ngủ dài mà thôi. Người còn sống mãi trong sự nghiệp cách mạng của quần chúng, sống mãi trong tâm trí của những con dân Việt Nam. Ánh trăng và Người ở đây có một sự giao hòa đồng điệu. Ánh trăng tượng trưng cho sự thanh cao, hiền hòa và bao dung cũng giống với Bác. Một nhân cách cao cả, thanh tao cả đời chỉ biết hi sinh thân mình cho độc lập dân tộc cho chủ nghĩa xã hội muôn năm.
Dẫu biết là thế nhưng tại sao con vẫn không thể kìm nén được cảm xúc của chính mình? Vẫn thấy nhói ở trong tim? Sự rung động đến nhói tim là một thứ tình cảm vô cùng thiết tha chân thành của tác giả dành cho Bác.
Cảm xúc ấy chợt như vỡ òa khi nghĩ đến giây phút phải chia xa Người:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Ở đây ta bỗng thấy có sự chuyển biến rất lớn trong nhịp thơ của tác giả. Nó mang nét gì đó vừa vội vàng lại vừa gấp gáp cuống quýt đúng với tâm trạng của những người con chuẩn bị đi xa quê hương. Lúc này mong ước của tác giả bỗng trở nên bình dị hơn bao giờ hết chỉ đơn giản muốn trở thành con chim để cất tiếng hót quanh năm, ngày ngày được ở bên Người dâng lên những thứ âm thanh trong trẻo nhất. Là mong muốn được làm đóa hoa để tỏa hương tô điểm cho giấc ngủ của Người. Thế nhưng vẫn chưa đủ nhà thơ còn mong muốn khát khao được làm cây tre để đời đời canh giâc ngủ cho Bác. Ở đây ta bắt gặp lại hình ảnh cây tre đã được nhắc đến ở đầu bài. Sự kết nối vòng tròn đã tạo nên một ấn tượng đặc biệt đối với người đọc người nghe. Điệp ngữ “muốn làm” được lặp đi lặp lại và nhấn mạnh trong từng câu chữ càng khiến con người thêm rung động. Đó là mong muốn khát khao tột bậc, sự tự nguyện thiết tha từ trong tâm hồn nhà thơ.
Bài thơ khép lại thế nhưng những cảm xúc của nó vẫn còn in đậm trong tâm trí mỗi người. Chính Viễn Phương đã truyền cho chúng ta biết bao nhiêu tình cảm chân thành và thân thương nhất. Để cho con cháu mai sau biết được, để có được cuộc sống hòa bình như hôm nay đó là nhờ công lao vô cùng to lớn của Bác của những thế hệ cha anh đã ngã xuống. Vì thế hãy sống sao để thật xứng đáng với niềm tin và sự kì vọng của Người.
1
0
doan man
17/03/2019 20:47:41
3. Cảm nhận và suy nghĩ của em về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải
________________
Nhắc tới mùa xuân trong thơ ca, không biết đã có bao nhiêu tác phẩm, tác giả viết về nó, dùng nó để bộc lộ xúc cảm của mình. Xuân Diệu có “Vội vàng”, Hàn Mặc Tử có “Mùa xuân chín”, Nguyễn Bính có “Mùa xuân xanh”, … Thế nhưng khi đọc đến “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải, ta lại cảm nhận được một hương vị khác, một hương vị vô cùng riêng biệt. Đó là một tình yêu cuộc sống tha thiết của một con người, tình yêu nước nồng nàn và khát vọng được dâng hiến cho cuộc đời.
Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ được viết khi tác giả đang trên giường bệnh trước khi rời xa cõi đời không lâu. Chính vì vậy, bài thơ là nỗi ước vọng lớn lao của tác giả chứa chan trong đó là cả một thứ tình yêu quê hương đất nước tha thiết và tình yêu cuộc sống vô vàn. Bước vào bài thơ, chúng ta có thể thấy ngay một chất rất riêng của Huế đã được Thanh Hải gửi gắm:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Ngay trong dòng thơ đầu tiên, tác giả đã sử dụng một động từ nhấn mạnh “mọc”, không phải mọc trên bãi bờ hay mặt đất mà là “mọc giữa dòng sông xanh”. Chỉ vậy thôi nhưng người đọc cũng như thấy cả một dòng sông đang trải dài ra trước mắt, dòng sông ấy đang hiền hòa, lững lờ trôi. Và xuất hiện ngay giữa dòng nước trong xanh ấy “một bông hoa tím biếc”. Bông hoa ấy như được nở ra giữa dòng nước chảy, như được nổi lên từ mặt nước yên bình. Bông hoa ấy có màu tím biếc. Chắc hẳn ở đây, chúng ta có thể hình dung ra một bông hoa lục bình tím đang trôi giữa dòng. Không phải là tím đậm hay tím nhạt mà lại là tím biếc, từ “biếc” ấy dường như đã tô đậm thêm khung cảnh của dòng sông. Một bức tranh quê hương bình dị, mộc mạc đã hiện ra trước mắt người đọc. Nhưng mùa xuân nào chỉ có thế:
“Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”
Một tiếng gọi “ơi” thân thương, giản dị! Chú chim kia đã trở thành người đưa tin của mùa xuân và loài chim chiền chiện vốn là loài chim quen thuộc ở những vùng quê. Tác giả đã đưa ra lời trách cứ “hót chi mà vang trời”. Chú chim nhỏ mang tin vui mùa xuân tới, đang cất vang những tiếng hót mừng mùa xuân về. Tiếng hót trong trẻo ấy vang vọng cả trời xanh khiến cho vạn vật đều cảm thấy vui tươi, hạnh phúc. Một lời trách cứ rất Huế, rất đáng yêu, dịu dàng. Được ngắm nhìn dòng sông với cánh hoa lục bình tím biếc dập dờn trôi cùng thưởng thức tiếng chim hót chào mừng xuân mới, nhà thơ như cảm nhận được tiếng chim mùa xuân kia đang dần đông đặc lại, quyện sánh lại như một giọt mật ngọt ngào. Giọt mật long lanh như sương sớm mai trong lành, từng giọt…từng giọt đang lặng lẽ nhỏ xuống không gian yên bình. Và tác giả đã đưa đôi bàn tay mình ra “hứng” lấy giọt mật xuân kia để thưởng thức. Chưa từng có bất cứ một so sánh nào khiến cho người đọc cảm thấy ngỡ ngàng hơn thế! Mùa xuân lại như những giọt nước long lanh, lại có thể khiến cho con người có thể chạm lấy, cầm lấy, nếm thử. Hành động hứng cả mùa xuân ấy, tác giả như đang muốn để cho mùa xuân lan đi, tràn ngập khắp ngõ ngách của tâm hồn mình. Phải yêu cuộc sống tha thiết tới nhường nào thì mới không muốn mất đi chỉ một giọt xuân nhỏ bé!
Không chỉ là tình yêu cuộc sống, yêu mùa xuân tha thiết, Thanh Hải dù đang nằm trên giường bệnh, nhưng cũng không quên đi những hình ảnh của đất nước đang trong thời kì xây dựng. Đó là nỗi niềm của một người mang trong lòng tình yêu nước thiết tha:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao”
Một mùa xuân mới lại bắt đầu với những người làm cách mạng. Hình ảnh đất nước đang trong thời kì xây dựng với hai nhiệm vụ chính là chiến đấu và sản xuất. Chúng ta đã bước qua giai đoạn đấu tranh giành độc lập và bước vào thời kì xây dựng xã hội chủ nghĩa. Vậy nên cùng với mùa xuân của đất trời, mùa xuân cũng đã về trong lòng những con người xây dựng đất nước. “Lộc” tức là những chồi non, những cành cây non biếc, là hình ảnh của mùa xuân. Nó tượng trưng cho sự sinh sôi, nảy nở, tượng trưng cho sức sống mãnh liệt đang trở mình vươn dậy. Vậy nên, xuân của người lính là những lộc non giắt quanh lưng để che mắt quân thù. Xuân của hậu phương sản xuất là những cánh đồng nương mạ non. Sản xuất và chiến đấu luôn luon song hành cùng nhau để xây dựng đất nước, mang mùa xuân tươi đẹp hơn về cho dân tộc. Giữa khoảnh khắc mùa xuân của đất trời và mùa xuân của đất nước đang hòa làm một, cả đất nước bước vào đó với một sự khẩn trương rõ ràng:
“Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao”
Phải rồi, cả đất nước ta, cả trời xuân kia cũng đang rạo rực, đang chuyển mình. Vậy nên, vạn vật cùng con người hối hả hơn, xôn xao hơn. Hai từ láy “hối hả, xôn xao” được dùng liên tiếp trong hai câu thơ đều là những từ láy miêu tả sự gấp gáp, sự rộn ràng, mau lẹ. Cùng với đó là điệp từ “như”, tất cả đó hòa quyện tạo nên một nhịp điệu khẩn trương, vui tươi không ngớt. Đó chính là hình ảnh của đất nước ta đang trong thời kì mới, một thời kì không còn khói lửa, chỉ còn những niềm vui, những mùa xuân hòa bình. Ở khổ thơ này, chúng ta cảm nhận được sự gấp gáp, khẩn trương trong từng nhịp thơ, phải chăng đó cũng chính là sự hối hả của chính tác giả khi được chứng kiến công cuộc xây dựng đất nước trong một mùa xuân mới?
Thế nhưng, ở khổ thơ tiếp theo, chúng ta lại cảm nhận được một sự chậm rãi, không còn không khí khẩn trương hối hả nữa bởi nhà thơ đã đưa chúng ta trở lại hàng ngàn năm lịch sử của quê hương:
“Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”
Nhịp thơ chậm rãi hào cùng giọng thơ bình thản như đang kể lại câu chuyện lịch sử “bốn ngàn năm” của dân tộc ta vậy. Trong trang dài lịch sử, chúng ta đã phải trải qua biết bao khó khăn, trải qua biết bao thăng trầm và gian khổ. Bao cuộc chiến chống ngoại xâm mà gần đây nhất là cuộc chiến chống lại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã lấy đi của dân tộc ta không chỉ xương máu mà còn là nước mắt, là những ngày tháng cơ cực, lầm than và đen tối. Đó là trang lịch sử kéo dài đầy “vất vả và gian lao”. Thế nhưng, vượt lên trên tất cả, đất nước chúng ta “như vì sao” sáng, vững vàng bước lên những ngày vinh quang, “tiến lên phía trước”. Ẩn chứa trong từng câu thơ là biết bao niềm tự hào dân tộc mà Thanh Hải muốn gửi gắm. Từ lịch sử bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, tới những trang vàng lịch sử không thể phai mờ, nhà thơ muốn gửi tới chúng ta niềm tin, niềm hi vọng về một đất nước hòa bình, phát triển ngày càng thịnh vượng hơn. So sánh hình ảnh “đất nước như vì sao” là muốn nói lên niềm tự hào về một dân tộc luôn sáng chói trong bất cứ hoàn cảnh nào. Cả khổ thơ là niềm tự hào dân tộc xen lẫn với tình yêu nước nồng nàn. Chỉ một khổ thơ thôi mà chứa đựng trong đó biết bao nhiêu điều!
Khi viết bài thơ này, tác giả đã nằm trên giường bệnh những ngày cuối đời, nhưng không phải vì thế mà tình yêu cuộc sống trong ông cũng lụi tàn đi. Ẩn sâu trong con người ông, vẫn là một tình yêu cuộc sống tha thiết, tình yêu đó được biểu hiện qua những vần thơ:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến.
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”
Cả hai khổ thơ là niềm ước vọng của tác giả. Mùa xuân của đất trời đã bên kia cửa sổ với bao nhiêu là nhựa sống tràn trề. Và Thanh Hải khi ấy muốn được hóa thành một phần của mùa xuân kia. Chỉ là một chú chim nhỏ được cất tiếng hót vang trong bản hòa ca mùa xuân hay là một cành hoa nhỏ bé được dâng tỏa hương thơm ngát cho đời. Chỉ vậy thôi cũng thấy khát vọng sống, tình yêu đời của nhà thơ to lớn tới nhường nào. Cả mùa xuân là một bản hòa ca đầy ý nghĩa với bao nhiêu là giai điệu, bao nhiêu thanh nốt. Vậy nhưng Thanh Hải chỉ muốn xin làm “một nốt trầm xao xuyến” bé nhỏ trong bản hòa ca bất tận ấy. Một nốt trầm lặng như cuộc đời của nhà thơ: bình yên và cống hiến hết mình cho sự nghiệp. Điệp từ “làm” được lặp lại để khẳng định chắc chắn nỗi khát khao cháy bỏng của ông. Nhà thơ muốn được một lần nữa cống hiến “một mùa xuân nho nhỏ” cho cuộc đời, cho sự nghiệp của đất nước. Chỉ cần “lặng lẽ dâng cho đời” thôi chứ không cần chút tôn vinh hào nhoáng nào hết. Bất cứ khi nào, lúc còn trẻ “tuổi hai mươi” hay khi đã về già “tóc bạc”, nhà thơ vẫn luôn muốn được sống hết mình, được dâng hiến hết mình cho sự nghiệp của đất nước cũng như với cuộc sống của chính ông. Điệp từ “dù là” được lặp lại hai lần liên tục như để khẳng định ước vọng của nhà thơ. Bất kể khi nào, bất kể như thế nào ông cũng muốn được hòa vào cuộc sống, cống hiến hết mình cho công cuộc xây dựng của đất nước. chỉ với hai khổ thơ ngắn ngủi nhưng gửi gắm trong đó là biết bao tình yêu cuộc sống này, yêu xuân, yêu đất nước và ước nguyện được dâng cho đời những thanh âm trong trẻo nhất. Mỗi con người trong đất nước đều là một mùa xuân nhỏ góp phần tạo nên mùa xuân bất diệt của Tổ quốc.
Kết lại bài thơ là một điệu hát quen thuộc của bất cứ người con xứ Huế nào. Nó chứa đựng trong đó là tất cả cảm xúc chân thành của tác giả - một người con của đất Huế thân thương:
“Mùa xuân tôi xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế”.
“Nam ai, Nam bình” là hai điệu hát của người dân Huế. Khúc Nam ai mang điệu buồn thương còn khúc Nam bình mang điệu dịu dàng, trìu mến. Cả hai khúc hát trên đều được hát trên nhịp phách tiền là một nhạc cụ của dân ca Huế. Cuối cùng ở đây, tác giả lại muốn thể hiện một tình yêu quê hương, sự gắn bó khăng khít với Huế qua những câu hò quên thuộc. Những câu hát ấy chính là nỗi lòng của tác giả đầy ngọt ngào, sâu lắng, yêu thương.
Cả bài thơ của Thanh Hải được viết trên thể thơ năm chữ. Thể thơ đó cũng với những biện pháp tu từ đã chuyển tải hết cho người đọc thấy rõ một tình yêu cuộc sống mãnh liệt tới nhường nào của Thanh Hải. Và hòa quyện trong tình yêu đó là một tình yêu cao cả hơn, lớn lao hơn, cháy bỏng hơn dành cho quê hương, cho đất nước ta đang trong thời kì xây dựng. Nó cũng thể hiện khát khao được cống hiến của người con xứ Huế cho mùa xuân của đất nước và con người Việt Nam.
Bài thơ kết lại rồi nhưng âm hưởng ngọt ngào, da diết mà Thanh Hải để lại cho chúng ta cứ ngân vang mãi trong lòng mỗi người. Tình yêu cuộc sống, yêu đất nước và ước nguyện của tác giả đã làm ta cảm thấy khâm phục biết nhường nào. Nhắc tới Thanh Hải, người ta sẽ không bao giờ quên đi hình ảnh một “mùa xuân nho nhỏ” đẹp đẽ đến như thế!

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 9 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư