Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Cảm nhận của em về hình ảnh anh bộ đội trong tác phẩm Đồng chí của Chính Hữu

8 trả lời
Hỏi chi tiết
2.574
0
2
Huyền Thu
18/07/2017 15:07:16
Người lính nông dân đã đi vào thơ ca bằng những hình ảnh chân thật và đẹp trong “Nhớ” của Hồng Nguyên, “Cá nước” của Tố Hữu... nhưng tiêu biểu hơn cả là bài “Đồng chí” của Chính Hữu. Bài thơ được sáng tác vào năm 1948 là năm cuộc kháng chiến hết sức gay go, quyết liệt. Trong bài thơ này, tác giả đã tập trung thể hiện mối tình keo sơn gắn bó, ngợi ca tình đồng chí giữa những người lính trong những năm kháng chiến chống Pháp.

Cảm nhận đầu tiên của chúng ta khi đọc bài thơ là hình ảnh người lính hiện lên rất thực, thực như trong cuộc sống còn nhiều vất vả lo toan của họ. Ngỡ như từ cuộc đời thực họ bước thẳng vào trang thơ, trong cái môi trường quen thuộc bình dị thường thấy ở làng quê ta còn đói nghèo lam lũ:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.

Quê hương xa cách nhau, mỗi người mỗi nơi. Người quê ở miền biển “nước mặn đồng chua”, người ở vùng đồi núi “đất cày lên sỏi đá”. Song dù xa cách nhau, dù khác nhau, nhưng đều là quê hương của lam lũ, vất vả, đói nghèo. Chữ nghĩa bình thường mà như đang cựa quậy khi cuộc sống thực đã ùa vào câu thơ đem đến những cảm nhận sâu sắc về quê hương người lính.

Tuy ở những phương trời khác nhau, “chẳng hẹn quen nhau”, nhưng cùng sống và chiến đấu với nhau trong một đội ngũ, những người lính đã tự nguyện gắn bó với nhau:

“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”

Cái rét ở rừng Việt Bắc đã nhiều lần vào trong thơ bộ đội chống Pháp vì đó là một thực tế ai cũng nếm trải trong những năm chinh chiến ấy. Có điều lạ là câu thơ nói đến cái rét gợi cho người đọc một cảm giác ấm cúng của tình đồng đội, nghĩa đồng bào. Câu thơ của Chính Hữu đã diễn tả tình đồng chí thật cụ thể và cô đọng, sự gắn bó giữa những người đồng chí cùng chung nhau chiến đấu “súng bên súng”, cùng chung một lí tưởng “đầu sát bên đầu”. Sự gắn bó mỗi lúc lại càng thêm sâu sắc: Là súng bên súng đến đầu bên đầu, rồi thân thiết hơn nữa là đắp chung chăn, thành tri kỉ.

Đoạn thơ đầu của bài thơ kết thúc bằng hai chữ “Đồng chí” làm sáng tỏ thêm nội dung, ý nghĩa của cả đoạn thơ. Nó giải thích vì sao người lính từ bốn phương trời xa lạ, không hẹn gặp nhau mà bỗng trở thành thân thiết hơn máu thịt. Đó là sự gắn bó giữa những người anh cùng chung một lí tưởng chiến đấu, là sự gắn bó kì diệu, thiêng liêng và mới mẻ của tình đồng chí.

Những người lính, những đồng chí ấy ra đi chiến đấu với tinh thần tự nguyện:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.

Họ vốn gắn bó sâu nặng với ruộng nương, với căn nhà thân thiết, nhưng cũng sẵn sàng rời bỏ tất cả để ra đi. Nhà thơ đã dùng những hình anh quen thuộc và tiêu biểu của mọi làng quê Việt Nam như biểu tượng của quê hương những người lính nông dân. Giếng nước, gốc đa không chỉ là cảnh vật mà còn là làng quê, là dân làng. Cảnh vật ở đây được nhân cách hoá, như có tâm hồn hướng theo người lính.

Tác giả tả rất thực về cuộc sống của người lính. Nhà thơ không che giấu mà như còn muốn nhấn mạnh để rồi khắc hoạ rõ nét hơn cuộc sống gian lao thiếu thốn của họ. Và phải là người trong cuộc thì mới vẽ lên bức tranh hiện thực sống động về người lính với một sự đồng cảm sâu sắc như vậy:

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh.
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

Thơ ca kháng chiến khi nói tới gian khổ của người lính thường nói rất nhiều tới cái lạnh, cái rét. Đoạn thơ thứ hai này kết thúc bằng câu “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Một sự cảm thông, chia sẻ vừa chân thành, vừa tha thiết làm sao. Người ta bảo bàn tay biết nói là thế. Hình ảnh kết thúc đoạn thứ hai này cắt nghĩa vì sao người lính có thế vượt qua mọi thiếu thốn, gian khổ, xa quê hương, quần áo rách vá, chân không giày, mùa đông lạnh giá với những cơn sốt rét “run người”... Hơi ấm của tình đồng chí truyền cho nhau đã giúp người lính thắng được tất cả. Hình ảnh kết thúc bài thơ chỉ có ba dòng:

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chở giặc tới
Đầu súng trăng treo

Sau những câu thơ tự do đang trải dài “Đêm nay rừng hoang sương muối”... câu kết thúc thu vào trong bốn chữ làm nhịp thơ đột ngột thay đổi, dồn nén, chắc gọn, gây sự chú ý cho người đọc. Hình ảnh kết thúc bài thơ đầy thơ mộng, cái thơ mộng của gian khố, hiểm nguy: một cánh rừng, một màn sương, một vầng trăng với hai ngọn súng, hai con người chờ giặc. “Đầu súng trăng treo” cùng là một câu thơ dồn nén và có sức tạo hình, nó đẹp như một biểu tượng chiến đấu của những người lính giàu phẩm chất tâm hồn. Đó cũng là vẻ đẹp trữ tình mới của thơ ca kháng chiến, kết hợp được súng và trăng mà không khiên cưỡng.

Toàn bài “Đồng chí” từ chi tiết cuộc sống đến cảm giác của tác giả đều rất thật, không một chút tô vẽ đắp điểm, không bình luận, thuyết minh. Bài thơ thiên về khai thác đời sống nội tâm, tình cảm người lính, vẻ đẹp của “Đồng chí” là vẻ đẹp của đời sống tâm hồn người lính mà nơi phát ra vầng ánh sáng lung linh nhất là mối tình đồng đội, đồng chí hoà quyện vào tình giai cấp. Hình ảnh “đầu súng trăng treo” ở cuối bài nâng vẻ đẹp người lính lên đến đỉnh cao khái quát trong đó có sự hài hoà giữa hiện thực và lãng mạn đồng thời mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
4
1
Nguyễn Duy Mạnh
18/07/2017 15:12:10
Chính Hữu thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Vừa cầm sung vừa cầm bút làm thơ, ông đã đóng góp cho nền văn học nước nhà nhiều thi phẩm đặc sắc về chiến tranh và người lính. Một trong số đó phải kể đến “ Đồng chí” – tác phẩm được coi là “ sử thi của một thời gian khổ và oanh liệt”. Trong bài thơ này Chính Hữu không chỉ khắc họa thành công tình đồng chí,đồng đội giữa những người lính mà còn dựng lên được bức chân dung sống động về những người lính cụ Hồ kiên cường, bất khuất.

Trước hết, Chính Hữu đã đề cập đến nguồn gốc, xuất thân của những người lính, để từ đó làm sáng lên lí tưởng yêu nước, tinh thần chiến đấu hết mình để bảo vệ tổ quốc.

“ Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.

Những người lính vốn có xuất thân từ những người nông dân nghèo với cuộc sống lam lũ, vất vả nơi “ nước mặn đồng chua” .

Cách diễn đạt thành ngữ “ nước mặn đồng chua” và “ đất cày lên sỏi đá” đã gợi ra hình ảnh của những làng quê nghèo, đất đai cằn cỗi khó cấy trồng, làm ăn,canh tác.

Có lẽ đây chính là điểm tương đồng đầu tiên của những người lính, và đây là cơ sở để những người lính chung sức, đồng lòng vì lí tưởng chung.

“Tôi với anh đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”

Từ những con người xa lạ, họ đến từ những vùng khác nhau của đất nước, xong chính lí tưởng cứu nước thiêng liêng đã gắn kết họ lại với nhau thành một đội quân cách mạng, cùng nhau chiến đấu. Để từ đó họ trở thành những người động chí, đồng đội:

“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”

Những người lính không chỉ có chung những lí tưởng cao đẹp mà họ còn có tình cảm đồng chí đoàn kết, chia sẻ, tương trợ lẫn nhau cả trong chiến đấu cũng như trong điều kiện sinh hoạt thiếu thốn, khắc nghiệt.

Những người lính đã phát huy được những truyền thống quý báu của dân tộc- đó là sự đoàn kết sức mạnh, đó là tình yêu thương gắn bó giữa những người đồng chí, đồng bào. Tình cảm cao đẹp này thật đáng quý biết bao!

Những người lính ra đi với tinh thần khảng khát, quyết tâm cao độ với lí tưởng đánh đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước.Và đối với những người lính, họ ra đi là không xác định ngày về. Họ sẵn sàng chiến đấu, hi sinh dâng hết hết mình cho tổ quốc, non sông.

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà chung mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”

Hình ảnh “ ruộng nương”, “ gian nhà chung” càng làm nổi bật lên cái tinh thần bất khuất, quật cường của những người lính ấy.

Ra đi thực hiện trách nhiệm với tổ quốc nhưng trong sâu thẳm tâm hồn của mỗi người lính đều mang nặng nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương.
1
0
Đặng Quỳnh Trang
18/07/2017 15:13:07
​Chính Hữu thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Vừa cầm sung vừa cầm bút làm thơ, ông đã đóng góp cho nền văn học nước nhà nhiều thi phẩm đặc sắc về chiến tranh và người lính. Một trong số đó phải kể đến "Đồng chí" – tác phẩm được coi là "sử thi của một thời gian khổ và oanh liệt". Trong bài thơ này Chính Hữu không chỉ khắc họa thành công tình đồng chí,đồng đội giữa những người lính mà còn dựng lên được bức chân dung sống động về những người lính cụ Hồ kiên cường, bất khuất.

Trước hết, Chính Hữu đã đề cập đến nguồn gốc, xuất thân của những người lính, để từ đó làm sáng lên lí tưởng yêu nước, tinh thần chiến đấu hết mình để bảo vệ tổ quốc.

"Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá".

Những người lính vốn có xuất thân từ những người nông dân nghèo với cuộc sống lam lũ, vất vả nơi "nước mặn đồng chua" .

Cách diễn đạt thành ngữ "nước mặn đồng chua" và "đất cày lên sỏi đá" đã gợi ra hình ảnh của những làng quê nghèo, đất đai cằn cỗi khó cấy trồng, làm ăn,canh tác.

Có lẽ đây chính là điểm tương đồng đầu tiên của những người lính, và đây là cơ sở để những người lính chung sức, đồng lòng vì lí tưởng chung.

“Tôi với anh đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau"

Từ những con người xa lạ, họ đến từ những vùng khác nhau của đất nước, xong chính lí tưởng cứu nước thiêng liêng đã gắn kết họ lại với nhau thành một đội quân cách mạng, cùng nhau chiến đấu. Để từ đó họ trở thành những người động chí, đồng đội:

“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ"

Những người lính không chỉ có chung những lí tưởng cao đẹp mà họ còn có tình cảm đồng chí đoàn kết, chia sẻ, tương trợ lẫn nhau cả trong chiến đấu cũng như trong điều kiện sinh hoạt thiếu thốn, khắc nghiệt.

Những người lính đã phát huy được những truyền thống quý báu của dân tộc- đó là sự đoàn kết sức mạnh, đó là tình yêu thương gắn bó giữa những người đồng chí, đồng bào. Tình cảm cao đẹp này thật đáng quý biết bao!

Những người lính ra đi với tinh thần khảng khát, quyết tâm cao độ với lí tưởng đánh đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước.Và đối với những người lính, họ ra đi là không xác định ngày về. Họ sẵn sàng chiến đấu, hi sinh dâng hết hết mình cho tổ quốc, non sông.

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà chung mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính"

Hình ảnh "ruộng nương", "gian nhà chung" càng làm nổi bật lên cái tinh thần bất khuất, quật cường của những người lính ấy.

Ra đi thực hiện trách nhiệm với tổ quốc nhưng trong sâu thẳm tâm hồn của mỗi người lính đều mang nặng nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương.

Nói đến điều này, Chính Hữu không phải nhấn mạnh đến tình cảm, nỗi nhớ nhà của những người lính mà để làm nổi bật lên tinh thần quật cường, coi cái chết nhẹ tựa hồng mao, nhấn mạnh đến quyết tâm dâng hiến hết mình cho cuộc chiến đấu gian khổ.

"Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính"  câu thơ đã biểu đạt được một cách tinh tế tình cảm yêu nhớ sâu sắc mảnh đất chọn rau của những người lính.

"Giếng nước", “gốc đa" là những hoán dụ chỉ không gian quê nhà thân thuộc, gắn bó. Những người lính mang theo tình yêu mãnh liệt với quê nhà, và đó sẽ là nguồn sức mạnh lớn lao để những người lính ấy thêm mạnh mẽ, quyết tâm.

Trong không khí mưa bom, bão đạn, trong hoàn cảnh sinh hoạt vô cùng khắc nghiệt, thiếu thốn, những người chiến sĩ vẫn không mảy may quan tâm,nản lòng. Họ thể hiện được sự lạc quan và niềm tin mãnh liệt vào tương lai:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh 
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá chân không giày"

Những câu thơ trên cho ta thấy tận cùng của cái khắc nghiệt nơi "Rừng thiêng nước độc", những thiếu thốn, cực nhọc trong cuộc sống của những người lính. Đó là những cơn sốt rét vì bị muỗi độc cắn nhưng không có thuốc thang chạy chữa, đó là sự thiếu thốn của cuộc sống sinh hoạt, quân trang không lành lặn “rách vai", "vài mảnh vá", “chân không giày"…

Thiếu thốn là vậy, khó khăn là vậy nhưng những người lính vẫn lạc quan, vui tươi, giọng điệu hóm hỉnh, cười đùa. Cái tinh thần ấy,niềm tin ấy của những người lính đã cho thấy cuộc sống khắc nghiệt không thể cản trở được họ trên con đường thực hiện lí tưởng cách mạng.

Thêm nữa, những người lính truyền cho nhau hơi âm, sức mạnh bằng hành động:

"Thương nhau tay nắm lấy bàn tay"

Hình ảnh "bàn tay nắm lấy bàn tay" thể hiện được tình đồng chí gắn bó, kết đoàn.

Tình đồng chí không chỉ được thể hiện ra trong sinh hoạt, những chia sẻ của cuộc sống thường nhật mà còn biểu hiện mạnh mẽ trong chiến đấu:

“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu sung trăng treo"

Thời gian "đêm nay", không gian là "rừng hoang" vắng lặng,thời tiết rét buốt đầy sương muối. Sương muối làm tê da như kim châm. Giữa cảnh hoang vu, tịch mịch ấy, tình đồng chí đồng đội vẫn tỏa ra khiến người ta ấm áp."Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới"

Đêm phục kích giữa rừng, bên cạnh có đồng đội người lính còn có một người bạn tâm giao, thân thiết nữa, đó là vầng trăng.

"Đầu súng trăng treo"

Vầng trăng là hình ảnh quen thuộc trong thơ ca nhưng trăng sà xuống treo trên mũi sung lạ là một phát hiện mới mẻ, khám phá bất ngờ của riêng Chính Hữu.

“Đồng chí" của Chính Hữu đã khắc họa sinh động bức chân dung tinh thần của anh bộ đội cụ hồ thời kháng chiến chống Pháp. Họ là những người nông dân mặc áo lính, yêu quê sâu lặng nhưng sẵn sàng bỏ lại sau lưng tất cả để lên đường chiến đấu; trong gian khó vẫn lạc quan, yêu đời, gắn bó với đồng đội. Hình ảnh đó thật đẹp đẽ biết bao!
0
0
Nguyễn Thị Thu Trang
18/07/2017 15:16:24
Từ buổi đầu dựng nước đến nay, dân tộc Việt Nam đã trải qua nhiều cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm, Trong đó phải kể đến hai cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ vô cùng gian khổ. Cứ mỗi lúc đất nước gặp hiểm nguy, thanh niên Việt Nam lại nô nức lên đường theo tiếng gọi cùa Tổ quốc. Và họ đã trở thành những biểu tượng người lính dũng cảm, kiên cường được khắc hoạ chân thực trong hai tác phẩm Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.

Ở hai thời kì khác nhau, dưới hai ngòi bút khác nhau, những người lính cách mạng trong hai bài thơ đều mang trong mình phẩm chất bộ đội Cụ Hồ, anh dũng, gan dạ và lòng yêu Tổ quốc sâu nặng. Họ là những người cùng chung lí tưởng, cách mạng cao đẹp là nguyện phấn đấu, hi sinh vì Tồ quốc, vì độc lập tự do của dân tộc. Đặc biệt, sau hơn hai mươi năm từ khi Đồng chí được ra đời thì lớp đàn con, đàn cháu của nhửng người lính thời chống Pháp từng súng bên súng, đầu sát bên đầu hay thương nhau tay nắm lấy bàn tay vẫn giữ trong mình truyền thống, tình đồng đội thiêng liêng, cao cả. Từ trong mưa bom, bão đạn của chiến tranh, những chiếc xe không kính lại hội tụ về đây họp thành tiểu đội xe không kính:

Những chiếc xe trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua của kính vỡ rồi.

Từ những cái bắt tay ấy, họ trao cho nhau cả niềm tin, hi vọng và sức mạnh. Nhưng, điểm khác ở họ là ý thức giác ngộ cách mạng. Những năm đầu chống Pháp, chính quyền ta vừa thành lập còn non trẻ nên về nhận thức chiến tranh của những người lính còn đơn giản, chưa sâu sắc như thời chống Pháp.

Và nếu như trong Đồng chí: Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh - Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi thì trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính những chiến sĩ lái xe phải tắm trong mưa bom, bão đạn, phải chịu sự dày vò của thời tiết trên tuyến đường Trường Sơn hiểm trở: Bụi phun tóc trắng như người già, Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời. Nhưng họ vẫn bất chấp, hiên ngang để vượt qua tất cả, họ vẫn thật lạc quan, yêu đời, và tinh nghịch, vẫn giữ trong mình một phong cách rất lính. Và gia đình của họ là ở nơi chiến hào, với đồng đội thân yêu, chứ không phải là ở hậu phương, nơi có mẹ già, vợ dại, con thơ như những chiến sĩ trong tác phẩm Đồng chí.

Vậy là dù có ở đâu, trong thời điểm nào ta vẫn cảm thấy sự anh dũng đáng khâm phục, bất chấp khó khăn gian khổ của chiến tranh. Chính Hữu và Phạm Tiến Duật đã hoá thân vào các chiến sĩ Việt Nam để khắc hoạ thật sinh động hình ảnh của họ. Để lại cho đời những bức chân dung tuyệt đẹp.
0
0
1
0
Đặng Quỳnh Trang
18/07/2017 15:17:21
​Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Những lời tâm sự ấy đã nói lên cái chung đầu tiên của những người lính : chung cảnh ngộ. “Nước mặn đồng chua” gợi cho ta nhớ đến một vùng đồng bằng chiêm trũng đất phèn đất mặn, còn “đất cày lên sỏi đá” lại nhắc đến hình ảnh một vùng trung du khô cằn “chó ăn đá, gà ăn sỏi”. Bằng việc sử dụng những cụm từ giản dị quen thuộc trong văn học dân gian, nhà thơ đã gợi lên hình ảnh những con người cùng xuất thân từ những miền quê nghèo khổ, lam lũ, những người nông dân cùng chung cái nghèo của đất nước trong cảnh nô lệ, chiến tranh. Bởi thế nên ngay từ phút đầu gặp nhau, họ đã rất tự nhiên kể về hoàn cảnh gia đình khó khăn của mình qua cách xưng hô “quê hương anh” và “làng tôi”. Chính Hữu không xuất thân từ nông dân, nhưng những người đồng đội của ông là nông dân, nên lời thơ của ông thấm đẫm cái tình giản dị và mộc mạc của họ. Hai câu thơ với kết cấu sóng đôi, đối ứng nhau “quê hương anh” – “làng tôi” và “nước mặn đồng chua” – “đất cày lên sỏi đá” đã tạo nên một sự nhịp nhàng, đồng điệu giữa những người lính. Sự đồng cảm về giai cấp ấy chính là điều khiến những người nông dân từ mọi phương trời tập hợp lại trong hàng ngũ cách mạng và trở thành thân quen :

Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Ngôn ngữ thơ vẫn rất giản dị, tự nhiên mà lại chứa đựng biết bao điều sâu kín. Những con người ấy tuy “xa lạ”, tuy mỗi người ở một “phương trời” khác nhau, tưởng chừng như không hề quen biết nhưng thật ra lại có một sự liên kết vô hình qua từ “đôi”. Tại sao tác giả lại dùng từ “đôi” mà không viết “hai người xa lạ” ? Vì bản thân từ “đôi” ấy đã hàm chứa những điều chung nhau, giống nhau, một sự thân thiết khó nói thành lời. Lời thơ viết là “chẳng hẹn” nhưng thực ra là đã có hẹn : anh và tôi có chung lòng yêu nước, chung khát khao đánh đuổi giặc để giải phóng quê hương nên cùng tự nguyện lên đường nhập ngũ để rồi “quen nhau”. Đó chẳng phải là một cái hẹn hay sao ? Cái hẹn ấy khiến ta nhớ đến những người lính trong bài “Nhớ” của Hồng Nguyên : “Lũ chúng tôi / Bọn người tứ xứ / Gặp nhau từ buổi chưa biết chữ / Quen nhau từ buổi “một, hai” / Súng bắn chưa quen / Quân sự mươi bài / Lòng vẫn cười vui kháng chiến.” Chung cảnh ngộ, chung lí tưởng chiến đấu, cái hẹn không lời mà mang bao ý nghĩa cao cả từ trong sâu thẳm tâm hồn của những người chiến sĩ ấy là cơ sở đầu tiên để tạo nên tình đồng chí của họ.

Quen nhau nhờ sự đồng cảm giai cấp, những người lính ấy trở nên gần gũi, thân thiết nhờ những điều rất bình dị mà vô cùng thiêng liêng :

Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Câu thơ không cầu kì, bay bướm mà vẫn gợi lên nhiều cảm xúc. Vì trong đó là chất giọng rất thực, rất sâu lắng, rất nhịp nhàng với cấu trúc tiểu đối và sóng đôi “súng” – “đầu”. Những người lính cùng chung nhiệm vụ, chung hoàn cảnh chiến đấu (“súng bên súng”), chung lí tưởng, chung ý chí chiến đấu vì độc lập tự do (“đầu sát bên đầu”) nên giữa họ nảy nở một tình đồng chí bền chặt, gắn bó trong mọi hoàn cảnh. Đó là mối tình “tri kỉ” của những người bạn chí cốt mà tác giả đã biểu hiện bằng một hình ảnh cụ thể, giản dị mà hết sức biểu cảm : “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. Trong suốt cả bài thơ, tác giả sử dụng những từ ngữ thuần Việt rất giản dị, chỉ dùng mỗi hai từ Hán Việt để thể hiện sự trân trọng của mình với hình ảnh được nhắc tới. Một trong số đó là “tri kỉ”, nghĩa là đôi bạn thân thiết, hiểu bạn như hiểu mình. Với từ “tri kỉ” ấy, câu thơ tuy nói đến cái rét buốt của rừng đêm nhưng người đọc lại thấy tỏa ra từ đó hơi ấm của tình đồng đội. Cái rét đã kéo xích những người lính lại gần nhau hơn. Lúc đầu là “sát”, sau đó là “sát bên”, khoảng cách đã bị xóa nhòa, và cuối cùng với “chung chăn”, họ đã gắn kết và hòa chung lại với nhau trong một tình đồng chí sâu sắc và thiêng liêng. Nói là “đôi” mà thực chất chỉ là một, một tình bạn tâm giao cùng sẻ chia tất cả. Đó chính là bước đệm để tác giả hạ một dòng thơ đặc biệt với chỉ một từ :

Đồng chí !

Câu thơ là một câu cảm thán chỉ vỏn vẹn hai âm tiết với một dấu chấm than làm sáng lên ý nghĩa của cả đoạn thơ cũng như bài thơ, vang ngân như một nốt nhấn trong bản hòa tấu du dương về tình người trong chiến tranh. Ngay cả dấu chấm kia cũng là một dấu lặng đầy nghệ thuật. Hai tiếng đơn giản ấy là bản lề gắn kết hai đoạn thơ lại với nhau, là nhãn tự của cả bài thơ. Hơn thế nữa, “đồng chí” không chỉ là một tiếng gọi, một từ xưng hô giữa những người lính mà còn là một lời khẳng định, là tiếng nói thốt lên từ đáy lòng, kết tinh của những tình cảm, cảm xúc đẹp đẽ nhất thời chiến – tình người, tình bạn,… thành điều thiêng liêng và sâu lắng nhất – tình đồng chí. Ta lại nhớ đến những gì Chính Hữu từng viết về đồng đội trong bài “Giá từng thước đất” : “Đồng đội ta / Là hớp nước uống chung / Nắm cơm bẻ nửa / Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa / Chia khắp anh em một mẩu tin nhà / Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp / Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết.” Tình đồng chí là thế đấy, nảy nở và lớn lên từ những gì giản đơn nhất, những gì thiêng liêng nhất và gắn bó keo sơn trong mọi hoàn cảnh thiếu thốn.
Nếu như sáu câu thơ đầu viết về cơ sở của tình đồng chí theo một lối quy nạp thì ở những câu thơ tiếp, bằng lối diễn dịch nhà thơ đã nói lên những biểu hiện của tình đồng chí. Trong mối liên kết bền chặt ấy, họ chia sẻ với nhau từ lí tưởng cho tới từng nỗi niềm tâm sự khi bỏ lại những gì thân thương nhất để ra đi vì nghĩa lớn :
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Đối với người nông dân, “ruộng nương”, “gian nhà” là những gì thân thuộc, gắn bó và quý giá nhất. Vậy mà anh đã gửi lại tất cả sau lưng để đi chiến đấu vì những điều cao cả, thiêng liêng hơn – độc lập, tự do. Câu thơ hay vì có chữ “không” rất giàu sức gợi, nó vừa đủ để diễn tả cái nghèo, không khoa trương nhưng cũng không bi lụy. Trong từ láy “lung lay” ở cuối câu thơ ấy ta cảm nhận được sự trống trải, khó khăn của một gia đình vắng người trụ cột. Người lính cũng hiểu điều đó, lòng anh cũng lưu luyến muốn ở lại. Nhưng đứng trước cảnh xâm lăng, là một người con của Tổ quốc, anh đã đặt lòng yêu nước lên trên đát cả, đặt nghĩa chung lên trên tình riêng. Hai chữ “mặc kệ” đã thể hiện thái độ lên đường thật rõ ràng, dứt khoát ấy. Nó gợi cho ta nhớ đến hình ảnh những anh Vệ quốc đoàn trong bài “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi : “Người ra đi đầu không ngoảnh lại / Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.” Nhưng người lính của Chính Hữu vẫn còn nặng lòng với quê hương nhiều lắm. Từ “mặc kệ” kia không thể hiểu theo nghĩa phó mặc, mà theo ngôn ngữ của người lính chỉ là một sự hoãn lại, đợi chờ cách mạng thành công. Vì nếu vô tình thì ở nơi chiến trường, làm sao họ cảm nhận được từng cơn gió lạnh lùa vào gian nhà trống của gia đình mình. Làm sao họ cảm nhận được tình thương nhớ hồn hậu của quê hương :

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính

Hình ảnh ẩn dụ “giếng nước gốc đa” thường được sử dụng trong ca dao để nói về quê hương làng xóm. Nhà thơ đã vận dụng tài tình chi tiết ấy, kết hợp với phép nhân hóa để gợi tả cảm giác phía sau người lính còn cả một gia đình, một hậu phương vững chắc đang chờ đợi. Ở đây chủ thể trong câu thơ không phải người lính, mà chính “giếng nước gốc đa” mới là chủ thể trữ tình. Đó là nơi họ sinh ra, lớn lên, dù có dứt khoát thế nào họ cũng không thể quên được. Chính cái thâm tình với hậu phương ấy đã biến thành động lực để người lính chiến đấu, không chỉ vì độc lập tự do cho Tổ quốc, mà còn để giải phóng quê hương. Và ở đây, nơi chiến trường, những người lính lại tìm được những tình cảm ấm áp và hồn hậu của quê nhà trong người bạn đồng chí của mình. Họ soi vào nhau, thấu hiểu và đồng cảm về tất cả. Tình đồng chí là bước đệm để nhà thơ mở ra vẻ đẹp tâm hồn của người lính : hy sinh thầm lặng vì Tổ quốc nhưng vẫn luôn nhớ về quê hương, gia đình ở hậu phương.
ột loạt những từ ngữ “ớn lạnh”, “sốt run người”, “ướt mồ hôi” đã đặc tả những cơn sốt rét rừng khủng khiếp mà rất quen thuộc với người lính thời ấy. Nếu trong cuộc sống gia đình, anh được bàn tay dịu dàng của người mẹ, người vợ ân cần chăm sóc thì ở đây, bàn tay ấy được thay bằng bàn tay của đồng đội. Sự chăm sóc ấy có thể vụng về, nhưng vẫn tràn đầy sự quan tâm, thấm đẫm tình đồng chí. Câu thơ đang vươn dài bỗng rút ngắn lại, chuyển sang âm điệu chậm rãi của phép liệt kê, tái hiện lại cuộc sống thiếu thốn của đời lính. Đi kháng chiến, anh lính nông dân mang theo cả cái nghèo vào chiến khu. Quân đội ta ngày ấy thiếu thốn đủ thứ, từ quân lương, quân y đến quân phục, quân trang, quân dụng,… Thiếu cả đến cái phương tiện tối thiểu để giữ ấm bàn chân là đôi giày. Nhưng khi ta đọc đoạn thơ lên, cái khổ chỉ là một yếu tố phụ, vì tình đồng chí đã tỏa hơi ấm và tiếp thêm sức mạnh cho người lính. Cặp đối ứng “áo anh rách vai” – “quần tôi có vài mảnh vá” là gợi cái thiếu thốn nhưng thực chất lại mang ý nghĩa bổ sung. Tác giả miêu tả hai con người nhưng người đọc lại cảm thấy chỉ có một hình ảnh duy nhất – “đồng chí”. “Đồng chí” không còn chỉ là tình cảm gắn bó keo sơn giữa những người lính mà đã trở thành một hình tượng có thực. Hình tượng ấy hóa thân vào những chi tiết nhỏ nhặt nhất trong cuộc sống của người lính : “rách vai”, “có vài mảnh vá”, “chân không giày”. Ở Chính Hữu không còn sự khoa trương, tô vẽ như trong “Ngày về” : “Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm / Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa”. Chất liệu hiện thực trong “Đồng chí” rất thật, thật tới mức trần trụi. Bài thơ lấy cảm hứng từ chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947 mà tác giả tham gia cùng đồng đội nên ông hiểu và cảm nhận được rất rõ cái gian khổ mà người lính phải chịu đựng. Nhưng trong hoàn cảnh đó, người lính vẫn “miệng cười buốt giá”. Tác giả đã rất tài tình khi tả nụ cười mà khiến người đọc cảm nhận được cái lạnh giá tê buốt của núi rừng mùa đông. Hình ảnh ấy vượt qua cái khắc nghiệt của chiến trường để đọng lại trong ta một ấn tượng thật đẹp về tinh thần lạc quan, về khí phách anh hùng, về sức chịu đựng bền bỉ, về sự hy sinh âm thầm của người chiến sĩ. Nó gợi cho ta nhớ đến cái cười âm vang cả Trường Sơn của những người lính lái xe trong thơ Phạm Tiến Duật : “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”. Người lính có thể thiếu thốn về vật chất nhưng không hề thiếu thốn về tinh thần 
Đối với nghệ thuật, người nghệ sĩ phải bén rễ vào cuộc đời, hút lấy nguồn nhựa dạt dào ngầm chảy trong lòng cuộc sống, đem tôi luyện trong cảm xúc của mình để kết tinh thành những viên ngọc sáng ngời để lại cho đời. Nhà thơ Chính Hữu đã làm được điều đó. Đến với “Đồng chí”, ta cảm nhận được hình ảnh người lính cách mạng và tình cảm gắn bó keo sơn của họ qua ngôn ngữ, hình ảnh cô đọng, chân thực và gợi cảm. Bài thơ đã khắc họa nên bức tranh sống động và hiện thực nhất về một quá khứ gian khổ vô cùng nhưng đầy ắp tình đồng đội, về những con người đã vượt qua tất cả để giành lấy hòa bình, độc lập ngày hôm nay.
4
0
Thượng Phong
26/12/2017 13:32:44
ĐỀ: CẢM NHẬN VỀ BÀI THƠ ĐỒNG CHÍ
Bài thơ Đồng Chí do nhà thơ bộ đội Chính Hữu sáng tác vào năm 1948, khi ông cùng bộ đội tham gia vào chiến dịch Thu đông 1947. Bài thơ như một bài ca về sức mạnh của tình đồng chí, vẻ đẹp tinh thần của các anh bộ đội cụ Hồ.
Cơ sở đã hình thành nên tình đồng đội được tác giả thể hiện trong bảy câu thơ đầu. Trong đó, họ có cùng chung cảnh ngộ, xuất thân:
" Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá"
Họ_những ng lính đều là những ng nông dân nghèo sống 1 cuộc sống bình dị, vất vả bên ruộng đồng. Tác giả đã cho hai câu thơ sóng đôi, với thành ngữ " nc mặn đồng chua", "đất cày lên sỏi đá" rất tự nhiên. Tạo nên cảnh sống vs điều kiện vô cùng han hẹp của nông dân bấy giờ.
" Anh vs tôi đôi ng xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau"
Hai câu thơ trên, tác giả cho là "đôi" mà ko phải là"hai", đây là điều đặc biệt. từ "đôi" có nghĩc chỉ hai con ng, sự vật cùng đi chung vs nhau. Và "đôi ng" ở đây chỉ về hai con ng đi chung nhưng lại xa lạ.Từ điểm trên mà câu thơ như đc tô thêm điểm nhấ, xa lạ nhưng gần gũi. Họ là hai con ng đến từ nơi phương trời khác nhau, nhưng cùng chung cảnh ngộ và lí tưởng sống nên đã gặp nhau, trở thành tri kỉ của nhau:
" Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!"
Tác giả đã dùng phép ẩn dụ cho "súng" và cách ns hình tượng tượng trưng cho"đầu". "Súng" là thể hiện cho nhiệm vụ mà ng lính phải gánh vác, chiến đấu. "Đầu" là thể hiện cho lí tưởng và mục đích sống để chiến đấu. Thể hiện sự ý hợp tâm đầu của hai ng, sự chung nhau đã khiến họ từ ng xa lạ đã trở thành tri kỉ khi còn chia sẻ cho nhau những khó khăn. Rồi bỗng dưng, câu thơ "Đờng chí!" đc hiện lên, như đang vang trong lòng ng đọc thì, nó như dâng trào lên dòng cảm xúc khó tả, thể hiện lên sự tin yêu giữa hai ng đồng chí. Câu thơ này cũng chính là tựa đề của bài thơ và góp phần tạo nên nội dung khổ thơ tiếp theo_biểu hiện tình đồng chí.
" Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà ko mặc kệ gió lung lay
Giếng nc gốc đa nhớ ng ra lính"
Chỉ vs những dòng thơ bình dị, tác giả đã thể hiện 1 tình cảm chân thành thấm đượn chấtdân gian. Thể hiện nỗi nhớ về quê hương, ruộng nượng, bn thân, gian nhà và cả giếng nc gốc đa. Đó đều là những của cải vật chất mà họ đã cố gắng lm lụng từng ngày mà có đc. Nhưng khi chiến tranh xảy ra, những con ng áo vải này vì nghe theo tiếng gọi của Tở Quốc mà đã bỏ hết tất cả, ra nơi mặt trận đầy gian nan. Bấy giờ, họ nhớ về quê hương, về ng thân và nhược lại. Đó chính là nỗi nhớ hai chiều, tiếp thêm sức mạnh tinh thần cho ng lính ra trận, vượt qua thử thách:
"Anh vs tôi bk từng cơn ớn lạnh
Sốt run ng vừng trán ướt mồ hôi"
Hiện thực của chiến tranh tàn khốc trong buổi đầu kháng chiến đc hiện lên rất rõ. Những ng lính đã cùng vượt qua sự khắc nghiệt của điều kiện sống và chiến đấu, chịu đựng sự hành hạ của cơn sốt rét rừng.
"Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân ko giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay"
Người lính CM trong sự thiếu thốn vật xhất, đều chung khó khăn và chia sẻ chúng: áo rách vai, quần nhiều mảnh vá, chân ko mang giày... Dù vậy, họ vẫn cười tươi trong cái khắc nghiệt đó, thể hiện tinh thần lạc quan và tình đồng chí. Mỗi khi trời trở lạnh, ng lính lại tay nắm tay, truyền cho nhau hơi ấm, sức mạnh tinh thần. Và đoạn thơ cuối đã mở ra cảnh đêm chờ giặc:
" Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo"
Trong đêm tối ở chốn rừng hoang vắng, họ_những ng lính đứng cạnh nhau chờ giặc. HÌnh ảnh đầu súng trăng treo vừa thực vừa mộng. Trong cảnh khuya, trăng lơ lửng trên ko trung như treo trên đầu súng. "Trăng" chính là biểu tượng của hoà bình, và "súng" đại diện cho sự chiến đấu giành lấy sự hoà bình đó. Cả dòng thơ hoà hợp, nói lên rằng trong chiến đấu gian khổ, ng lính luôn lạc quan yêu đời và tình đồng chí bề chặt, keo sơn.
Bài thơ "Đồng chí" như 1 bài ca viết về các anh bộ đội cụ Hồ, thông qua bút pháp tả thực kết hợp lãng mạn, ngôn ngữ bibình dị, vs thành ngữ đc vận dụn rất linh hoạt qua bàn tay của Chính Hữu.
0
0
NoName.435194
23/03/2019 05:53:46
toàn giỏi copy paste !

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư