LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy

2 trả lời
Hỏi chi tiết
2.233
0
0
Phạm Minh Trí
01/08/2017 01:03:11
Đề bài: Phân tích truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy.
Bài làm
Mỗi một địa danh, một ngôi đình làng, một lễ hội thường gắn với một truyền thuyết, một câu ca. Xưa kia lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hoá cộng đồng vô cùng quen thuộc của nhân dân. Người dân đến với lễ hội được thoả mãn cả phần tâm linh (cầu mong những điều tốt đẹp cho dân làng, cho gia đình) và cả phần giao lưu, cộng cảm với cộng đồng. Thái độ, quan niệm thành kính, ngưỡng vọng của nhân dân cũng thể hiện rất rõ qua các nghi lễ thờ cúng, vật phẩm dâng tiến, các hành động lễ hội, các tục, hèm (đặc điểm riêng liên quan đến nguồn gốc, thân thế, chiến công hay sự hoá thân của nhân vật được thờ phụng). Đây cũng chính là mặt quan trọng trong việc đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy văn học dân gian trong nhà trường.

1. Đặc điểm về nội dung
Với truyền thuyết này, kết cấu cốt truyện được xây dựng thể hiện dụng ý nghệ thuật của nhân dân khá rõ. Nội dung của tác phẩm được phân thành hai phần, có thể tồn tại độc lập nhưng vẫn nằm trong chỉnh thể. Ta sẽ phân tích hình tượng các nhân vật trong sự phát triển của kết cấu cốt truyện để tìm hiểu chủ đề. Kết cấu hai phần của truyền thuyết thể hiện rõ nét chủ đề tư tưởng mà nhân dân muốn trao gửi cho thế hệ sau. Phần thứ nhất là bài học dựng nước và chiến thắng của An Dương Vương và nhân dân Âu Lạc. Phần thứ hai là bài học rút ra từ việc mất nước, do lỗi lầm của cha con An Dương Vương. Đó là sự thật lịch sự nhưng cũng là dụng ý nghệ thuật được tác giả dân gian khắc họa.
a) Phần 1 : Bài học dựng nước và chiến thắng của An Dương Vương và nhân dân Âu Lạc
Theo chúng tôi, cuộc tranh chấp Hùng - Thục thực ra là một tất yếu lịch sử phù họp với thời đại sử thi. Đó là thòi kì liên minh bộ tộc để mở rộng địa bàn, lãnh thổ. Bộ tộc nào mạnh, bộ tộc ấy sẽ chiến thắng. Người anh hùng nào tài giỏi, đủ sức mạnh chiến thắng, người anh hùng ấy được tôn vinh. An Dương Vương đã có công sáp nhập nhà nước Văn Lang với nhà nước Âu Việt để trở thành quốc gia Âu Lạc lớn mạnh, văn minh hơn. Là một thủ lĩnh bộ tộc vùng cao, An Dương Vương đã có cái nhìn chiến lược, tài quân sự khi quyết định rời kinh đô từ vùng núi Phong Châu của vua Hùng về định đô ở đồng bằng ven sông Hồng thuộc cổ loa, Đông Anh, Hà Nội (rất gần với cố đô Thăng Long của các vua nhà Lí hơn một ngàn năm sau, nghĩa là rất gần với trung tâm Thủ đô Hà Nội bây giờ). Chi tiết An Dương Vương xây thành Ốc (Loa Thành) mãi không xong, sau phải "lập đàn trai giới, cầu đảo bách thần", được sứ Thanh Giang (Rùa Vàng) giúp cho kế sách diệt trừ yêu quái để xây Thành, cho vuốt làm nỏ thần,... là những chi tiết đậm yếu tố hư cấu, tưởng tượng. Có thành cao (Thành rộng hon ngàn trượng, xoắn như hình trôn ốc, cho nên gọi là Loa Thành), vũ khí linh diệu [nỏ thần bắn một phát chết hàng vạn tên giặc), nên khi Triệu Đà kéo quân sang xâm lược nước ta, chúng đã thua lớn, không dám đối chiến, bèn xin hoà. Yếu tố thần thoại đan xen với yếu tố lịch sử khiến cho câu chuyện thêm lung linh, kì ảo, tăng tính khái quát, ý nghĩa biểu trưng của các chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm. Chi tiết chiến thắng yêu quái thể hiện những khó khăn và quyết tâm của cha ông ta trong buổi đầu dựng nước. Chi tiết vuốt của thần Kim Quy là sự lí tưởng hoá, khái quát hoá kĩ thuật chế tác đồ đồng, mũi tên đồng của cha ông ta thời Âu Lạc mà tiêu biểu là tài năng của tướng quân Cao Lỗ - người sau này được nhân dân một số địa phương thờ phụng. Khoa học khảo cổ với các công trình khai quật lòng đất Loa Thành vào thập kỉ 60, 70 của thế kỉ XX đã tìm được rất nhiều mũi tên đồng, những công cụ bằng đồng,... đã chứng minh sự gắn kết giữa huyền thoại và lịch sử. (Người Hi Lạp cũng đã khai quật và tìm được dấu tích thành Tơ-roa chìm khuất trong lòng đất nhờ những chỉ dẫn trong sử thi huyền thoại I-li-át, Ô-đi-xê). Hình tượng nỏ thần nằm trong môtíp vũ khí thần kì không thể thiếu trong các truyền thuyết và cổ tích về người anh hùng chống ngoại xâm : roi sắt, ngựa sắt của người anh hùng Thánh Gióng, vuốt rùa của Triệu Quang Phục, gươm thần của Lê Lợi, thanh gươm ông Tú trong truyền thuyết Tây Nguyên,... Nguyên nhân tạo nên chiến thắng là do An Dương Vương có ý chí, quyết tâm, có tinh thần bền bỉ trong sự nghiệp dựng nước, được tổ tiên, trời đất phù trợ, nhân dân giúp sức, biết sử dụng tài năng của các tướng giỏi như Cao Lỗ,... Có được các yếu tố thiên thời - địa lợi - nhân hoà ấy, người cầm quân giành chiến thắng là tất yếu.
b) Phần 2 : Bài học rút ra từ việc mất nước, do lỗi lầm của cha con An Dương Vương
Nội dung của phần này tập trung phản ánh và khắc hoạ sâu sắc nguyên nhân thất hại của cha con An Dương Vương. Có thành cao, hào sâu, vũ khí thần kì nhưng yếu tố con người luôn là yếu tố quyết định. Do chủ quan, khinh địch An Dương Vương đã cho Triệu Đà cầu hoà rồi "vô tình gả con gái là Mị Châu cho con trai Đà là Trọng Thuỷ". Do chủ quan, ỷ vào vũ khí nên khi quân Triệu Đà đã kéo sát đến chân thành, An Dương Vương vẫn ngồi ung dung chơi cờ, cười mà nói rằng "Đà không sợ nỏ thần sao ?". Loa Thành thất thủ, vua chỉ còn biết đặt người con gái yêu duy nhất của mình lên ngựa chạy trốn về phương Nam.
- An Dương Vương là nhân vật xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm, là người có công lao to lớn trong sự nghiệp dựng nước nhưng cũng mắc sai lầm nghiêm trọng, lịch sử không thể tha thứ. Đất nước Âu Lạc roi vào thảm kịch ngàn năm Bắc thuộc cũng từ lỗi lầm đau xót đó của cha con An Dương Vương. An Dương Vương đã phải chịu thất bại, nỗi đớn đau vô cùng to lớn : là một nhà vua có công dựng nước mà tự mình làm mất nước, là một người cha rất mực yêu con mà phải tự tay chém đầu người con gái yêu quý nhất của mình. Hành động chém con gái của An Dương Vương vừa thể hiện bi kịch của An Dương Vương vừa là cách khắc hoạ thêm tính cách của nhà vua. Khi tỉnh ngộ, nhận rõ lỗi lầm, An Dương Vương đã kiên quyết đặt lợi ích quốc gia lên trên tình nhà.
Nhân dân rất công bằng khi thể hiện thái độ về luận công và tội của nhà vua. Khi kết thúc truyền thuyết, dân gian không để An Dương Vương tự tử ở biển Đông khi cùng đường như lịch sử ghi lại mà để thần Kim Quy hiện lên trao sừng tê bảy tấc cho An Dương Vương rẽ nước đi xuống biển Đông, hoà thành khí thiêng, bất tử cùng sông núi (theo quan niệm dân gian, người anh hùng có công với đất nước không bao giờ chết). Ta lại gặp ở đây môtíp hoá thân kì ảo rất quen thuộc trong các truyền thuyết về người anh hùng dân tộc. Nếu như hình tượng Thánh Gióng bay lên trời có âm hưởng hào hùng, kì vĩ thì hình tượng An Dương Vương được Rùa Vàng rẽ nước dẫn đi xuống biển có âm hưởng bi tráng hon. An Dương Vương được thờ ở nhiều nơi ưên đất nước ta, đền thờ lớn nhất ở Cổ Loa (Hà Nội).
- Nhân vật Mị Châu chỉ xuất hiện ở phần sau của câu chuyện, là nguyên nhân trực tiếp gây nên hoạ mất nước. Có nhiều ý kiến đánh giá về nhân vật Mị Châu, người lên án, kẻ bênh vực, song cần phải bám vào chi tiết nghệ thuật để hiểu thái độ của nhân dân. Nếu quap điểm đạo đức phong kiến đánh giá người phụ nữ theo tiêu chí "tam tòng" (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử) thì MỊ Châu nặng phần đáng thương mà nhẹ phần tội lỗi. Nàng là người con gái hiền thục, trọn đạo hiếu, vâng lời cha lấy chồng, lấy chồng thì một lòng tin yêu chồng. Sao có thể trách nàng mất cảnh giác với cả chồng mình được ? Nhân dân đã đánh giá về hành động của nàng như thế nào ? Nhân dân đứng trên quan điểm nào để xem xét ? Mị Châu tin yêu chồng nhưng nàng đã vi phạm nguyên tắc "bí mật quốc gia" của một người dân đối với đất nước, đặt tình riêng lên trên việc nước dẫu chỉ vì nhẹ dạ, vô tình cho Trọng Thuỷ "xem trộm nỏ thần". Nếu sự mất cảnh giác của vua cha là nguyên nhân gián tiếp thì sự nhẹ dạ, ngây thơ của Mị Châu là nguyên nhân trực tiếp gây nên hoạ mất nước. Nàng tin yêu chồng bằng tình yêu mù quáng. Nhân dân đã sáng tạo nên hình ảnh áo lông ngỗng là chi tiết nghệ thuật tài tình để thể hiện sáng rõ sự mù quáng đáng trách của Mị Châu. Trọng Thuỷ đánh tráo nỏ thần, trước khi về nước đã hỏi MỊ Châu : "Ta nay trở về thăm cha, nếu như đến lúc hai nước thất hoà, Bắc Nam cách biệt, ta lại tìm nàng, lấy gì làm dấu ?". Mị Châu đáp : "Thiếp có áo gấm lông ngỗng thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ rứt lông mà rắc ở ngã ba đường để làm dấu". Trọng Thuỷ vừa về nước, chiến tranh hai nước xảy ra, thế mà Mị Châu nhẹ dạ, mù quáng, không suy xét sự tình, vẫn ngồi trên lưng ngựa sau vua cha rắc lông ngỗng cho quân Triệu Đà lần theo dấu vết. Phải chăng áo lông ngỗng càng lúc càng đẩy cha con nàng đến con đường cùng không lối thoát ? Nhân dân đã thể hiện quan niệm của mình rất rõ ràng khi để cho Rùa Vàng (đại diện cho công lí nhân dân) kết tội Mị Châu thật đanh thép, không khoan nhượng : "Kẻ nào ngồi sau ngựa chính là giặc đó !".
Cần chú ý, nhân dân gọi Mị Châu là giặc. Nhân dân không đánh giá nàng theo quan điểm đạo đức ịihong kiến thông thường mà đứng trên quan điểm quốc gia, dân tộc để kết tội nàng. Nàng phạm phải lỗi lầm không thể tha thứ của một người dân đối vói đất nước. Nhân dân đã để cho MỊ Châu phải chết dưới lưỡi gươm nghiêm khắc của vua cha. Song thái độ, cách đánh giá của nhân dân vừa thấu lí vừa đạt tình. Có tội thì phải đền tội nhưng oan tình cần được hoá giải. Hãy nghe lời khấn của Mị Châu trước khi bị chém đầu. Theo Đỗ Bình Trị, "Nếu cho rằng Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thuỷ là câu chuyện tình yêu chung thuỷ, đẹp đẽ thì đó là lời nhục mạ vong linh nàng Mị Châu tội nghiệp, vì nếu thế nàng sẽ là kẻ si tình, mù quáng cho đến tận lúc chết". Nhưng nàng chỉ vô tình mà mắc tội. Khi nghe lời phán quyết của thần Kim Quy, biết mình bị lừa dối, nàng không một chút nào nhớ đến Trọng Thuỷ, không một lời nào xin tha tội chết mà chỉ còn duy nhất ước nguyện được minh oan cho lỗi lầm không thể tha thứ của mình : "Thiếp là phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối thì chết đi sẽ biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù". Lưỡi gươm oan nghiệt của vua cha vung lên, máu người con gái "chảy xuống nước, trai sò ăn phải đều biến thành hạt châu". Lời khấn của nàng công chúa vừa đáng giận vừa đáng thưong được ứng nghiệm, oan tình được hoá giải nhờ trí tưởng tượng và thái độ nghiêm khắc mà nhân hậu của nhân dân.
Một số bản kể trong dân gian còn có chi tiết, sau khi chết, máu Mị Châu chảy xuống biển, trai sò ăn phải hoá thành ngọc, xác của nàng kết thành hòn đá hình người con gái không đầu trôi theo dòng sông về vùng đất cổ Loa thì dừng lại. Nhân dân trong vùng biết là đá thiêng, rước về lập am Mị Châu. Ngày nay nếu có dịp về thăm hoặc dự lễ hội cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội), ta có thể vào thắp hương ở am Mị Châu, gần đền thờ An Dương Vương. Trong ngôi đền nhỏ, nghi ngút khói hương, pho tượng nàng công chúa không đầu, mặc áo hoàng bào, đeo nhiều châu ngọc là lời nhắc nhở vô cùng thấm thìa và sâu sắc cho bao thế hệ về bài học lịch sử mất nước đau xót và nỗi oan tình quá đỗi đau thương của công chúa Mị Châu. Hoá đá vì oan khuất, vì tuyệt vọng cũng là môtíp nghệ thuật quen thuộc trong truyện kể dân gian. Trong truyền thuyết Trầu cau, Lang - nhân vật người em bị người anh ngờ oan - buồn bã ra bờ sông ngồi khóc, kiệt sức mà hoá đá ; nàng Vọng Phu ôm con chờ chồng, hoá đá trong nỗi đau đớn tuyệt vọng khôn cùng. Những hình tượng nghệ thuật tuyệt vời đó là những lời nhắn gửi vô cùng sâu sắc, lòng nhân hậu bao dung của nhân dân có sức trường tồn vẫn lung linh toả sáng.
Bài học giữ nước và câu chuyện tình bi thảm này là nguồn cảm hứng không voi cạn cho các tác giả đời sau:
+ Một đôi kẻ Việt, người Tần
Nửa phần ân ái, nửa phần oán thương
Vuốt rùa chàng đổi móng,
Lông ngỗng thiếp đưa đường.
Thề nguyền phu phụ
Tinh nhi nữ, việc quân vương.
(Tản Đà)
+ Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu
Trái tim lầm chỗ để trên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm bể sâu.
(Tố Hữu)
- Nhân vật Trọng Thuỷ : Việc đánh giá nhân vật này có phần thống nhất hơn. Trọng Thuỷ là kẻ thực hiện âm muu đen tối của vua cha là thôn tính quốc gia Âu Lạc. Trọng Thuỷ hiển nhiên được coi là tên gián điệp không hơn không kém. Song, không thể nói rằng Trọng Thuỷ không phải là nhân vật chứa đựng mâu thuẫn. Khi đạt được ý nguyện của vua cha, thôn tính được đất nước Âu Lạc, lần theo dấu lông ngỗng tìm thấy xác Mị Châu, Trọng Thuỷ đem xác vợ về chôn cất, "thương tiếc khôn cùng, khi đi tắm tưởng như thấy bóng dáng Mị Châu, bèn lao đầu xuống giếng mà chết". Chính cái chết đã làm sáng lên chút nhân tính còn lại trong con người Trọng Thuỷ. Cái chết của Trọng Thuỷ, Mị Châu là lời tố cáo âm mưu và thực tế chiến tranh xâm lược, phản ánh mối quan hệ giữa nước và nhà, số phận quốc gia và hạnh phúc cá nhân. Có dị bản ở vùng Cổ Loa kể rằng, khi Triệu Đà thắng lọi mở tiệc khao quân, thuyền của Trọng Thuỷ đang dạo choi trên hồ thì oan hồn Mị Châu hiện lên túm cổ dìm Trọng Thuỷ chết tươi. Chúng ta thấy đây là bản kể không có tính hệ thống nếu đặt trong tương quan với hình tượng nghệ thuật của tác phẩm. Nếu oan hồn Mị Châu dìm chết Trọng Thuỷ thì làm sao có thể còn tồn tại hình tượng ngọc trai - giếng nước sâu sắc và giàu ý nghĩa như vậy. "Người đòi sau mò được ngọc ở biển Đông, lấy nước giếng này mà rửa thì thấy trong sáng thêm". Hình tượng này đã hoá giải nỗi oan của Mị Châu và cả nỗi giày vò, ân hận của Trọng Thuỷ. Bài học cảnh giác cao độ và sự cảm thông sâu sắc với những nỗi oan tình. Tìm hiểu truyền thuyết fõ ràng phải kết họp cả việc khai thác hình tượng nghệ thuật, các môtíp nghệ thuật theo hướng thi pháp học, đồng thòi phải chú ý đến phưong pháp nghiên cứu liên ngành.
Nhân dân đã nghiêm khắc biết bao và cũng nhân hậu biết bao khi xử lí số phận ba nhân vật trung tâm của tác phẩm qua hình tượng nghệ thuật độc đáo và có sức lay động lòng người.
2. Đặc điểm về nghệ thuật
Nghệ thuật xây dựng nhân vật vừa gắn với "cái lõi sự thật lịch sử" vừa lung linh yếu tố hoang đường, kì ảo tạo nên "chất thơ và mộng" tràn đầy trong tác phẩm. Các chi tiết nghệ thuật, ngôn ngữ và hành động được chọn lọc để khắc sâu hình tượng nhân vật: An Dương Vương tài giỏi nhưng mất cảnh giác, giặc đến vẫn điềm nhiên đánh cờ, rút kiếm chém con gái, lời của thần Kim Quy; Mị Châu ngồi trên lưng ngựa rắc lông ngỗng, lời khấn nguyền của nàng trước khi chết,...
Những hư cấu nghệ thuật (Rùa vàng, Mị Châu và chi tiết nhà vua tự tay chém đầu con gái) được sáng tạo là để nhân dân gửi gắm lòng kính trọng đối vói thái độ dũng cảm của vị anh hùng, sự phê phán thái độ mất cảnh giác của Mị Châu là lời giải thích lí do mất nước và nỗi đau mất nước.
Kết cấu vừa theo công thức chung vừa có nét riêng độc đáo, khắc hoạ hai phần chính của cốt'truyện thể hiện chủ đề tư tưởng một cách nhất quán, đó là nguyên nhân tạo nên chiến thắng và thất bại đau xót của cha con An Dương Vương. Các tình tiết chặt chẽ, hấp dẫn, hình tượng ngọc trai - giếng nước có xu hướng cổ tích hoá và có ý nghĩa nghệ thuật sâu sắc. 

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Nga
11/04/2021 15:49:32
+4đ tặng

Hẳn là mỗi lần nhắc đến cái nỏ thần chúng ta đều nhớ đến câu chuyện An Dương Vương, Mị Châu và Trọng Thủy. Câu chuyện ấy như một câu chuyện lịch sử và cũng có những yếu tố hư cấu thể hiện được những buổi đầu dựng nước của ông cha ta. Không những thế ta còn thấy được tình nước, tình cha con tình vợ chồng sắt son bị cuộc chiến giữa các nước làm cho rơi vào bi kịch.

Năm ấy vua An Dương Vương đánh giặc Triệu Đà thế nhưng quân trong thành không thể đánh lại chúng. Mấy ngày trước khi xảy ra trận chiến này có một ông già đã đến đây và nói với vua là sẽ phải cậy nhờ thần Kim Quy nói xong ông già lại đi. Vua An Dương Vương nửa tin nửa ngờ thì sáng hôm sau quân Triệu Đà kéo đến tấn công thành của nhà vua. Quân của An Dương Vương đã chống cự quyết liệt phần vì bị động phần vì chủ quan trước những lời dặn dò của ông già hôm trước. Vua An Dương Vương chạy trốn đến bờ biển. Trong cuộc chiến ấy thì quân của vua đã thua. Ở ngay trên bãi biển ấy làn nước dưới biển bỗng tẽ làm đôi và hiện lên thần rùa kim quy có lấy một cái vuốt vàng của mình cho nhà vua và dặn nhà vua về chế tác thành nỏ thần thì sẽ lấy lại được thành và không sợ bất cứ một quân xâm lược nào cả. Ở đây ta thấy được đời sống tâm linh của nhân dân người Việt. Thần Kim Quy đã mang đến sự giải cứu cho nhà vua. Không ở câu chuyện lịch sử này mà ngay cả đến thời vua Lê Lợi cũng thế. Nhà vua cũng được thần kim quy cho mượn thanh kiếm vàng để đánh tan quân giặc. Và chính vì thế vua An Dương Vương đã chiếm lại được thành và cứ mỗi lần có quân xâm lược thì vua lại đem nỏ thần ra bắn. Vậy nên không có bất cứ một tên giặc nào có thể lọt vào thành chiếm thành được.

Cuộc sống tưởng chừng bình yên từ đấy nhưng lại không. Đó chỉ là sự khởi đầu tốt đẹp mà thôi. Triệu Đà như đoán được nhà vua có bảo bối gì cho nên hắn có nhiều quân tốt đến đâu cũng không thể nào đánh lại An Dương Vương. Thế rồi hắn bày trò cầu hòa để thám thính. Trọng Thủy con trai của hắn chính là người có nhiệm vụ tìm ra vũ khí bí mật ấy. Trọng Thủy được lấy con gái của An Dương Vương tên là Mị Châu. Tuy họ là người của hai bên vua cha đối đầu với nhau nhưng khi gặp gỡ và trở thành vợ chồng họ đã yêu thương nhau thật lòng. Về phần vua An Dương Vương lại không hề đề phòng gì trước sự cầu hòa của đối phương. Đó cũng chính là một sai lầm dẫn tới bi kịch. Thế rồi cô con gái của ông cũng ngây thơ mà không đề phòng gì người chồng của mình. Hai người sống hạnh phúc và cô đã đem cái chuyện bí mật về nỏ thần kia cho Trọng Thủy nghe. Vậy là bi kịch bắt đầu từ hành động dại dột ấy. Trong Thủy lén lấy chiếc nỏ thần và dặn người vợ của mình là khi nào đi nhớ làm dấu xong chuyện chàng sẽ đuổi theo nàng.

Vậy là Triệu Đà sau khi đoạn được mục đích đã mang quần đến xâm chiếm thành. An Dương Vương vẫn không biết chuyện bèn sai người đi tìm nỏ thần ra nhưng khổ nỗi không thấy đâu cả. Ngay cả nhà vua vẫn không nghĩ rằng Trọng Thủy lấy. Vì thế cũng đành nghênh chiến đánh Triệu Đà. Quân vua không có nỏ thần yểm trợ thì tan tác thua trận. Vua An Dương Vương đã đưa Mị Châu lên ngựa và chạy ra phía biển để cầu cứu Long Hải. Trên đường đi nàng vẫn không hề hay biết Trọng Thủy lừa dối mình vẫn làm theo lời chàng dặn. Nàng dứt những chiếc lông ngỗng để làm dấu cho chàng chạy theo. Có thể nói Mị Châu là một cô gái hết sức ngây thơ không biết đến mưu hại người khác. Đồng thời ta cũng thấy được tình cảm mà hai người dành cho nhau là một tình cảm vợ chồng thật sự.

Đến bên bờ biển, rùa thần hiện ra nói rằng chính người ngồi sau ngựa là kẻ đã làm nên những chuyện này. Người cha An Dương Vương không ngần ngại do dự gì mà rút kiếm chém đầu con gái mình ngay tức khắc. Sau đó cùng với rùa kim quy rẽ nước xuống long cung. Bi kịch ấy cho thấy người con gái ngây thơ kia đã làm mất nước của cha mình. Nhưng cũng thật đáng thương cho cô khi chết đi mà không hiểu tại sao mình bị chết. Một điều khiến cho chúng ta phải suy nghĩ về hành động của người cha. Vua An Dương Vương không phải là không thương con nhưng trước những lời nói của thần kim quy ông như tức giận trước người con gái của mình. Chính vì sự ngây thơ tin người của cô đã làm ông mất nước. Bi kịch tình cha con là như vậy đấy. Chỉ khổ cho người con gái nhu mì nết na kia chết một cách oan ức không biết mình đã làm nên tội tình gì. Cô gái thánh thiện ấy chỉ biết rằng mình nghe lời vua cha và có một tấm lòng vàng son với người chồng của mình mà thôi. Chết đi cô biến thành ngọc trai thể hiện sự ngây thơ trong trắng trong tâm hồn mình.

Về phần trọng Thủy thì sau khi hoàn thành nhiệm vụ chàng đuổi theo nàng nhưng đó lại cũng là dấu hiệu để cho cha chàng đuổi theo để giết vua An Dương Vương. Khi đến nơi Trọng Thủy thấy xác của vợ mình đã vô cùng đau xót. Suy cho cùng Trọng Thủy cũng vì vâng lời cha mình chứ bản thân chàng không hề độc ác. Chàng yêu thương mị Châu thật lòng chứ không phải lừa dối. Chàng chỉ làm theo lời của cha mình mà thôi. Ở đây ta thấy sự trung hiếu của người con trai dành cho cha mình chứ bản thân chàng cũng không ý thức được việc làm của mình sẽ gây ra cái chết thương tâm của nhiều người như vậy. Và Trọng thủy mỗi lần tắm nhìn xuống giếng lại thấy hình bóng của Mị Châu dưới đó. Anh quá đau đớn vì thế cho nên anh quyết định nhảy xuống giếng ấy để tử tự.

Câu chuyện kết thúc với một tấn bi kịch về mất nước, tình cha con, tình nghĩa vợ chồng. Họ đều nhận lấy một kết cục cho việc làm của mình. An Dương Vương vì không đề phòng mà thành ra như thế. Mị Châu quá đỗi ngây thơ tin người, Trọng Thủy vì tình nghĩa cha con không ý thức việc làm của mình. Tất cả những việc làm ấy đã dẫn đến bi kịch nhưng ta vẫn thấy được những vẻ đẹp của họ. An Dương Vương thẳng tay chém con thể hiện lòng yêu nước, Mị Châu yêu thương cha, yêu thương son sắt người chồng. Trong Thủy là một người con có hiếu và yêu thương vợ mình.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 10 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư