Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích nghị luận nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn " Chí Phèo" của Nam cao

phân tích nghị luận nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam cao
2 trả lời
Hỏi chi tiết
36
Tham khảo câu trả lời từ Trợ lý ảo Lazi
Truyện ngắn "Chí Phèo" của Nam Cao (tên thật là Trí Phú) là một tác phẩm tiêu biểu của nền văn học hiện đại Việt Nam, phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội Việt Nam trong thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám. Tác phẩm không chỉ mang tính chất nghệ thuật tự sự mà còn chứa đựng nhiều ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Dưới đây là phân tích những yếu tố nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn này.

### 1. Nhân vật Chí Phèo

Chí Phèo là nhân vật trung tâm của tác phẩm, được xây dựng theo hình thức hiện thực sinh động. Cuộc đời của Chí Phèo là sự phản chiếu của số phận con người dưới chế độ phong kiến áp bức. Anh xuất thân là một nông dân lương thiện, nhưng bị xã hội đẩy vào con đường lưu manh, vỡ mộng vì những bất công trong cuộc sống. Từng nét tính cách, diễn biến tâm lý của Chí Phèo được khám phá sâu sắc, thể hiện rõ sự bi kịch trong cuộc đời của một con người bị gạt ra ngoài lề xã hội.

### 2. Cốt truyện và cấu trúc

Cốt truyện của "Chí Phèo" được xây dựng theo cấu trúc mạch lạc, có điểm nhấn rõ rệt. Từ những điều bình dị trong cuộc sống hàng ngày, Nam Cao đã dẫn dắt người đọc qua những khúc quanh của số phận Chí Phèo, từ khi anh còn là một người nông dân cho đến khi trở thành một kẻ say rượu, sống không mục đích. Cái kết mở khiến người đọc cảm thấy nghẹn ngào và day dứt, mở ra nhiều suy nghĩ về số phận con người.

### 3. Ngôn ngữ và phong cách

Nam Cao sử dụng ngôn ngữ rất sắc sảo, có chiều sâu, thể hiện được nhiều trạng thái cảm xúc của nhân vật. Những câu văn tả thực, giọng điệu trần thuật lôi cuốn đã giúp khắc họa rõ nét cảnh ngộ bi thảm của Chí Phèo. Đặc biệt, tác giả thường sử dụng các hình ảnh ẩn dụ, so sánh để thể hiện tâm trạng nhân vật cũng như hiện thực xã hội:

- **Hình ảnh Chí Phèo**: Nam Cao đã so sánh Chí Phèo với nhiều hình ảnh khác nhau để thể hiện sự biến chuyển của tâm hồn và tình cảnh khốn cùng của anh.
- **Ngôn ngữ địa phương**: Sự sử dụng ngôn ngữ địa phương khiến nhân vật trở nên sống động hơn, gần gũi với người đọc.

### 4. Tính nhân văn

Tác phẩm không chỉ đơn thuần là bức tranh về xã hội phong kiến mà còn thể hiện những giá trị nhân văn sâu sắc. Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao tố cáo sự tàn nhẫn của xã hội, đồng thời khái quát lên tiếng nói về khát vọng sống, khát vọng yêu thương của con người. Những khát khao bình dị nhưng cao cả của Chí Phèo, từ mong muốn được làm người lương thiện đến khao khát một mái ấm gia đình, tất cả đều tạo nên một bức chân dung đầy bi kịch nhưng cũng rất nhân bản.

### Kết luận

Tóm lại, "Chí Phèo" của Nam Cao là một tác phẩm tiêu biểu cho nghệ thuật tự sự trong văn học hiện đại, thể hiện sâu sắc số phận con người và những khía cạnh phức tạp của cuộc sống. Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã gửi gắm những tư tưởng nhân văn sâu sắc, phản ánh hiện thực xã hội, đồng thời tạo nên những giá trị nghệ thuật độc đáo, chinh phục lòng người đọc. Tác phẩm không chỉ dừng lại ở việc kể một câu chuyện, mà còn mở ra những suy ngẫm về cuộc sống, về nhân tính trong mỗi con người.
2
0
+5đ tặng
Chí phèo là tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Nam Cao và cũng là tác phẩm tiêu biểu nhất của nền văn học hiện thực phê phán. Thành công của truyện ngắn Chí Phèo không chỉ ở hình tượng nhân vật Chí Phèo mà còn ở bút pháp viết truyện ngắn có một không hai của nhà văn Nam Cao.

Ở Chí phèo là truyện ngắn nhà văn Nam Cao đã thể hiện được bút pháp điển hình hoá đạt tới trình độ bậc thầy trong xây dựng nhân vật.

Quả thực, Nam Cao có biệt tài trong việc miêu tả, phân tích tâm lý nhân vật. Tác giả có khả năng trong việc miêu tả tâm lý phức tạp của nhân vật, làm cho nhân vật hiện lên trước mắt người đọc rất sống động, có cá tính độc đáo. Nam cao đã sử dụng nhiều thủ pháp, nhiều phương tiện để miêu tả tâm lí nhân vật, tạo nên một chủ nghĩa tâm lý trong sáng tác của ông. Nam Cao thường sử dụng thiên nhiên làm phương tiện để thể hiện trạng thái tâm lý của nhân vật.

Khung cảnh thiên nhiên được cảm nhận qua đôi mắt của Chí Phèo sau khi thức tỉnh: “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá…” là những âm thanh quen thuộc của cuộc sống mà bấy lâu nay Chí Phèo không nhận thấy, giờ trở thành tiếng gọi tha thiết kéo Chí Phèo trở lại với cuộc sống lương thiện, đánh thức khát khao lương thiện trong tâm hồn Chí

Chí Phèo, Bá Kiến là những điển hình nghệ thuật bất hủ. Họ vừa tiêu biểu cho một loại người có bề dày xã hội, vừa là những con người rất cụ thể, có sức sống nội tại mạnh mẽ.

Khác với những nhân vật của một số nhà văn đương thời có chức năng chủ yếu là khái quát tính cách nhân vật. “Chí Phèo” của Nam Cao đã khái quát một hiện tượng phổ biến đã trở thành quy luật trong xã hội lúc bấy giờ; hiện tượng những người nông dân nghèo lương thiện do bị áp bức bóc lột đè nén nặng nề bị đẩy vào con đường tha hoá lưu manh.

Khi xây dựng nhân vật, Nam Cao tạo ấn tượng bằng hai cách: hoặc là miêu tả chi tiết, đặc tả diện mạo bên ngoài, hoặc là chỉ thoáng qua, không vẽ chi tiết cụ thể về diện mạo của nhân vật. Ở những sáng tác viết về người nông dân Nam Cao thường tạo nên những nhân vật dị dạng và tập trung miêu tả chi tiết hình dáng bên ngoài của những nhân vật này. Đó là bộ mặt “nặng chình chĩnh như người phù, da như da con tằm bủng, lại lấm tấm đầy những tàn nhang. Cái trán ngắn ngủn, ngắn ngủn lại gồ lên. Đôi mắt thì híp lại như mắt lợn sề” của Lang Rận. Đó là bộ mặt “vằn dọc vằn ngang không thứ tự biết bao nhiêu là sẹo” của Chí Phèo hay bộ mặt xấu đến mức ma chê quỷ hờn của Thị Nở.

Đặc tả những bộ mặt dị dạng, ghê tởm của nhân vật là cách thức để Nam Cao làm rõ hơn tính cách bên trong của nhân vật. Ẩn sâu dưới cái vẻ bề ngoài ghê tởm, đáng sợ ấy là những con người hết sức đáng thương. Do hoàn cảnh xô đẩy mà Chí Phèo từ một người nông dân hiền lành, lương thiện bị biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, một kẻ đâm thuê chém mướn, gây ra không biết bao nhiêu tội ác, nhưng rồi Nam Cao vẫn phát hiện ra đốm sáng lương tri còn sót lại trong con người bị tước đoạt cả nhân hình và nhân tính ấy. Chí Phèo thức tỉnh và khát khao trở lại làm người lương thiện.

Thị Nở là người đàn bà xấu đến mức ma chê quỷ hờn, nhà lại có dòng giống mả hủi, Thị lại dở hơi nên cả làng Vũ Đại đều xa lánh Thị: “người ta tránh Thị như tránh một con vật nào rất tởm”. Một người phụ nữ như thế mà Chí Phèo muốn chung sống làm lại cuộc đời cũng không được xã hội thừa nhận. Khi miêu tả Thị Nở Nam Cao đã sử dụng bút pháp cường điệu để tô đậm cái xấu của Thị Nở, Thị Nở càng xấu thì bi kịch của Chí Phèo càng lớn. Khi xây dựng nhân vật người trí thức Nam Cao ít khi miêu tả ngoại hình. Ông chỉ chú ý đến những nét ngoại hình thể hiện tâm lý, tính cách nhân vật mà ông tập trung đi sâu vào đặc tả diện mạo tinh thần nhân vật qua những giằng xé, những cuộc vật lộn căng thẳng về tinh thần bên trong của nhân vật. Tâm lý nhân vật trở thành đối tượng chính của ngòi bút Nam Cao.

Tài năng miêu tả tâm lý của Nam Cao thể hiện ở chỗ ông có khả năng nắm bắt những biến thái tinh vi, những rung động tinh tế trong tâm hồn con người. Ông là một nhà văn có biệt tài khi miêu tả những trạng thái tâm lý phức tạp, những hiện tượng lưỡng tính dở say dở tỉnh, dở khóc dở cười, mấp mé ranh giới giữa thiện và ác, hiền với dữ, giữa con người với con vật. Với tài năng bậc thầy Nam Cao đã diễn tả cụ thể, sâu sắc diễn biến tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp thị Nở. Thị Nở với bát cháo hành tình nghĩa đã làm sống dậy bản chất lương thiện trong con người Chí. Sau bao nhiêu năm ngập sâu trong vũng bùn tội lỗi, giờ đây Chí Phèo lại khát khao trở về với cuộc sống lương thiện.

Tuy nhiên nhân vật của Nam Cao còn thể hiện như một nhân vật có cá tính hết sức độc đáo, không lặp lại, vừa đa dạng vừa thống nhất. Chí Phèo vừa là kẻ bán rẻ cả nhân tính, nhân hình để tồn tại, vừa là kẻ dám thủ tiêu sự sống của mình khi nhân phẩm đã trở về. Chí Phèo vừa là con quỷ dữ của làng Vũ Đại, một thằng triền miên chìm trong cơn say đến mất cả lý trí, vừa là kẻ khao khát lương thiện, muốn làm hoà với mọi người, vừa là một kẻ nô lệ thức tỉnh, một đầu óc sáng suốt nhất, tỉnh táo nhất của làng Vũ Đại khi đặt ra những câu hỏi có tầm khái quát sâu sắc về quyền được làm người lương thiện đến mức Bá Kiến cũng phải ngạc nhiên. Chí Phèo còn là kẻ cố cùng, vừa là người tự xưng “anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”.

Chí phèo, Binh chức, Năm Thọ trong “Chí Phèo” vốn là những con người lương thiện nhưng bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa, mất cả nhân hình và nhân tính. Viết về những người nông dân bị đẩy vào con đường tha hóa Nam Cao đã lên án gay gắt xã hội bất công, ngang trái đã chà đạp lên nhân phẩm con người, đồng thời phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện vẫn luôn tồn tại ở ngay cả những con người bị tha hóa ấy.

Ngoài ra là nghệ thuật trần thuật kể truyện linh hoạt tự nhiên phóng túng mà vẫn nhất quán, chặt chẽ, đảo lộn trình tự thời gian, mạch tự sự có những đoạn hồi tưởng, liên tưởng tạt ngang, tưởng như lỏng lẻo mà thực sự rất tự nhiên, hợp lý, hấp dẫn.

Ở truyện “Chí Phèo”, Nam Cao đã để nhân vật xuất hiện bắt đầu bằng tiếng chửi: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời…”. Cách mở truyện như vậy gây ấn tượng và tạo sự cuốn hút với người đọc về cuộc đời, số phận của nhân vật.

Nam Cao cũng hay sử dụng và sử dụng thành công kiểu kết cấu vòng tròn. Đây là kiểu kết cấu mà phần mở đầu và phần kết thúc của tác phẩm có sự tương ứng với nhau; những hình ảnh, những tình tiết xuất hiện ở đầu tác phẩm bằng hình thức này hay hình thức khác, lại được gợi ra một cách đầy ám ảnh ở cuối tác phẩm. Hình thức kết cấu này đòi hỏi một sự sắp xếp hợp lý các sự kiện, các tình tiết tạo nên sự liên kết chặt chẽ giữa chúng.

Đọc “Chí Phèo” ta cứ mãi bị ám ảnh bởi hình ảnh “chiếc lò gạch cũ” xuất hiện ở phần đầu và phần cuối tác phẩm. Hình ảnh ấy vừa có ý nghĩa mở đầu và kết thúc, khép lại cuộc đời của một kẻ khốn khổ tủi nhục nhất trong xã hội thực dân phong kiến, vừa như dự báo về sự xuất hiện của một kiếp người mà số phận chắc sẽ còn thê thảm hơn nhiều. Bằng kiểu kết cấu này Nam Cao muốn nói rằng: chừng nào xã hội còn nhiều bất công, ngang trái thì chừng ấy vẫn còn nhiều cuộc đời, nhiều số phận như Chí Phèo.

Ở truyện “Đời thừa” kết cấu vòng tròn lại tạo ấn tượng sâu đậm về sự luẩn quẩn, bế tắc, không lối thoát của nhân vật Hộ. Là một nhà văn có lý tưởng, có hoài bão nhưng vì lẽ sống tình thương, vì gánh nặng gia đình Hộ buộc phải hi sinh lý tưởng, viết dễ dãi để nuôi sống gia đình, vì vậy mà Hộ luôn day dứt, tự dày vò bản thân, Hộ tìm đến rượu để quên đi những đau đớn về tinh thần. Lúc say Hộ đối xử với vợ con như một kẻ vũ phu, nhưng khi tỉnh lại Hộ lại vô cùng hối hận, tuyên bố sẽ chừa rượu, nhưng rồi Hộ lại uống và lại thô bạo với vợ con …sau đó lại ăn năn, hối hận. Kết cấu vòng tròn của tác phẩm đã góp phần làm nổi bật tấn bi kịch tinh thần luẩn quẩn, không lối thoát của nhân vật Hộ.

Ngôn ngữ của Nam Cao cũng đặc biệt tự nhiên, sinh động, sử dụng khẩu ngữ quần chúng một cách triệt để, mang hơi thở đời sống, giọng văn hoá đời sống. Ngôn ngữ kể chuyện vừa là ngôn ngữ của tác giả, vừa là ngôn ngữ của nhân vật, nhiều giọng điệu đan xen, tạo nên một thứ ngôn ngữ đa thanh đặc sắc.

Với tất cả những đặc sắc nghệ thuật ấy, “Chí Phèo” đánh dấu một trình độ phát triển mới của văn học và nghệ thuật viết truyện ở nước ta.
 

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
bngocc_đz
11/10 20:33:11
+4đ tặng

Trong chiến lược giao tiếp diễn ngôn - thể loại, để thể hiện chủ thể và bức tranh thế giới, các nhà văn lựa chọn, sáng tạo ngôn ngữ nghệ thuật đặc thù, mới mẻ. Nam Cao đã tạo ra ngôn ngữ nghệ thuật mang thế giới quan và nhân sinh quan riêng. Truyện ngắn Chí Phèo đã xây dựng nên một thứ ngôn ngữ thế giới quan đặc biệt, riêng có để biểu đạt bức tranh thế giới phân lập kẻ bên lề và trung tâm dưới sự tác động của tính chất quần ngư tranh thực và định kiến lạnh lùng. Ngôn ngữ thế giới quan ấy góp phần tạo dựng nên nghệ thuật tự sự đặc sắc, phong cách độc đáo trong truyện ngắn của Nam Cao.

Với Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã tạo ra một lối trần thuật độc đáo, làm cơ sở tạo nên tính đối thoại đa thanh là trần thuật từ nhiều điểm nhìn qua việc di chuyển điểm nhìn liên tục từ người kể giấu mặt sang nhân vật hoặc ngược lại, từ nhân vật này qua nhân vật khác. Toàn bộ tác phẩm được kể từ điểm nhìn của người kể giấu mặt, tạo cảm giác về cái nhìn từ bên ngoài, khách quan, kể những gì trông thấy. Tuy nhiên, điểm nhìn ấy được di chuyển qua nhân vật, kể bằng lời nói hoặc dòng độc thoại nội tâm. Giữa hai điểm nhìn/ ngôi kể này có sự chuyển tiếp bằng kiểu lời trần thuật nửa trực tiếp – lời là của người kể giấu mặt nhưng điểm nhìn lại ở nhân vật. Ngay đoạn mở đầu tác phẩm sự di chuyển linh hoạt này đã được thể hiện rõ nét.

Khi di chuyển điểm nhìn ta sẽ thấy sự kết hợp hài hòa, linh hoạt giữa điểm nhìn bên ngoài và bên trong, điểm nhìn của người kể đứng ngoài và điểm nhìn nhân vật, điểm nhìn toàn tri và hữu tri, khách quan và chủ quan. Cùng một sự kiện, nhân vật, ta bắt gặp nhiều cái nhìn, điểm nhìn mang theo cách đánh giá, thái độ khác nhau, đối lập, xung đột với nhau. Ngay đoạn mở đầu, nói về tiếng chửi của Chí Phèo, ta sẽ thấy cái nhìn bên ngoài của người kể giấu mặt muốn tìm hiểu tường tận bài chửi của Chí, đối tượng, mục đích cuối cùng của tiếng chửi đó là gì. Nhưng trong cái nhìn của dân làng Vũ Đại thì Chí Phèo chửi đơn thuần như một thói quen, quán tính “cứ rượu xong là chửi”, chửi như người khác say hát nghêu, không có gì đáng quan tâm hay bất ngờ. Vì thế họ im lặng, họ nghĩ “chắc nó trừ mình ra”. Còn đối với bản thân Chí Phèo tiếng chửi chất chứa cả nỗi đau, khao khát, niềm phẫn uất lẫn tuyệt vọng. Đó là nỗ lực giải trung tâm, được thừa nhận, được giao tiếp dù phải gây hấn, nhận lại sự nhục mạ.

Khi lựa chọn trần thuật từ nhiều điểm nhìn và di chuyển linh hoạt, nhà văn Nam Cao đã sử dụng đại từ nhân xưng trung hòa sắc thái biểu cảm, gây cảm giác lạnh lùng khi gọi bằng “hắn”, “thị”. Tuy nhiên chính những đại từ này khiến ngữ nghĩa được chuyển đổi linh hoạt thành các ngôi khác nhau trong tình huống, ngữ cảnh cụ thể. “Hắn”, “thị” là cách gọi từ bên ngoài, người khác dùng để chỉ Chí Phèo, thị Nở tự nó mang theo cái nhìn có vẻ định kiến, bề bậc của những người ở trung tâm với những kẻ bên lề, thấp kém, dị dạng với thái độ khinh thị. Còn khi lời trần thuật là lời nửa trực tiếp thì những “hắn”, “thị” lại là cách tự xưng, tự xác định vị thế của mình với người khác, với xã hội. Nó là một kiểu xưng ít định danh nhất, không bao gồm quyền năng, thái độ, hay đại diện cho điều gì. “Hắn”, “thị” trần trụi là những con người thuộc một giới, như người khác nhìn để phân biệt họ với người khác, để hiểu sự tồn tại, hiện hữu của họ chỉ có thế, những gì là bản năng, bản thể tự nhiên nhất mà khi sinh ra được trời phú. Bên cạnh các đại từ nhân xưng, Nam Cao còn dùng tên để định danh, hoặc giữ chức năng như một cách xưng hô. Khi dùng đến tên cũng là cách định danh con người mang bản chất xã hội nào đó. Tại Sao là Chí Phèo không phải là Chí? Ngay tên gọi gắn với biệt danh mà cái trung tâm, đa số dùng để gọi đánh dấu một giá trị, vị trí của con người. Từ Chí đến Chí Phèo là hai quãng đời/ cuộc đời, số phận, vị trí khác nhau. Nó không đơn thuần là tên gọi mà mang trong đó sự biến đổi của thân phận, nhân cách, tâm hồn từ đánh giá bên ngoài. Thị Nở, thị, Nở là cách gọi không hoàn toàn giống nhau mang theo những điểm nhìn, cái nhìn với cảm xúc, thái độ khác nhau.

Khi trần thuật từ nhiều điểm nhìn thì tất yếu dẫn tới sự đối thoại trong ngôn ngữ, nhất là ngôn ngữ thế giới quan. Bởi điểm nhìn, cách sử dụng ngôn ngữ để định danh, môt tả mang theo những ý niệm, quan điểm, tư tưởng, tình cảm riêng của chủ thể đó. Vì thế, cùng một nhân vật, trong các khoảng thời gian, không gian gắn với các tình huống khác nhau sẽ có những cái nhìn khác nhau, đối lập/ đối thoại bình đẳng. Tổng thể những cái nhìn đó sẽ cho người đọc một cái nhìn bao quát, tổng thể, xóa tan mọi định kiến, thấy được mọi mặt, mọi phần trong một con người. Để từ đó, mỗi nhân vật hiện lên như một con người sống, động, như con người, mang bản thể muôn thuở với những phần tốt, xấu, thiện, ác, hiền, dữ, con, người… Điển hình nhất là Chí Phèo, thị Nở. Với Chí Phèo, Bá Kiến coi hắn là tay chân, là kẻ có thể sai khiến làm mọi việc chỉ cần mềm rắn đúng lúc, chỉ cần cho vài đồng bạc uống rượu; dân làng Vũ Đại coi hắn là quỷ dữ, là kẻ gây ra đau thương nên chết cũng không tiếc; bà cô thị Nở thấy Chí Phèo là con số 0, là mối ô nhục nếu cháu bà lấy hắn; trong khi đó thị Nở thấy hắn rất hiến, thấy đáng thương và tội nghiệp, nhất là đáng yêu. Nhưng điều quan trọng và độc đáo nhất là Nam Cao không tách bạch, thấy con người rời rạc ở các trạng thái, tính cách, mà ông thường xuyên để nhân vật hiện lên trong trạng thái lưỡng tính, nước đôi, chập chờn ở hai bờ say – tỉnh, người – con, hiền – dữ, thiện – ác, đáng thương – đáng trách, nạn nhân – tội nhân… Vì thế chúng ta khó có thể trả lời một cách rạch ròi câu hỏi cho tình huống cuối cùng rằng Chí Phèo đến nhà và giết Bá Kiến trong trạng thái say hay tỉnh? Cái thế lập lờ, nước đôi ấy là là đặc điểm người nhất, mang tính phổ quát nhân loại của con người muôn thuở.

Việc tổ chức kết cấu tác phẩm tự sự cũng là một yếu tố quan trọng của ngôn ngữ thế giới quan, nhất là phần mở đầu và kết thúc. Ở truyện ngắn Chí Phèo ta thấy rất rõ những sự gia công sáng tạo này. Tác phẩm mở đầu bằng hình ảnh hắn (Chí Phèo) vừa đi vừa chửi, cứ rượu xong là chửi. Sự xuất hiện của Chí Phèo gắn liền với tiếng chửi xác nhận một mốc thời gian cụ thể - thời điểm hiện tại. Lúc ấy Chí Phèo đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, mất hết ý thức, triền miên trong những cơn say. Từ thời điểm hiện tại, người kể ngược về quá khứ truy tìm lai lịch, quá trình tha hóa, lý giải tại sao có một Chí Phèo xuất hiện ngày hôm nay như vậy. Sau khi trở về thực tại, chiều nay hắn lại chửi, những sự kiện mới tiếp diễn, tạo ra các bước ngoặt tiếp theo để đi đến kết cục cuộc đời của Chí Phèo và kết thúc tác phẩm. Việc tổ chức kết cấu như vậy sẽ làm đảo trật tự thời gian tuyến tính, dồn nén các khoảng thời gian kéo dài, đồng hiện sự kiện, tạo nên một cốt truyện diễn tiến nhanh, dồn dập, với nhiều bước ngoặt đầy kịch tính. Quan trọng hơn tỷ lệ các sự kiện trong các khoảng thời gian rất khác nhau. Quá khứ thoảng qua trong vài trang, người kể xoáy vào câu chuyện thực tại, các sự kiện đang diễn ra, nhấn vào bi kịch, thân phận bên lề và tác nhân gây ra bi kịch ấy. Ấn tượng chính là một kết cục đã rồi, không thể thay đổi, không thể vượt thoát những thành trì của định kiến và cường quyền.

Tác phẩm kết thúc bằng chi tiết: Ðột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người lại qua... Nhiều người cho rằng với chi tiết kết thúc này thì Chí Phèo mang kiểu kết cấu đầu cuối tương ứng. Nhưng tôi thì lại thấy đây không phải là kiểu đầu cuối tương ứng mà chỉ là sự lặp lại chi tiết ở phần đầu. Bởi mở đầu là sự xuất hiện của Chí Phèo với tiếng chửi mà kết thúc là cái lò gạch cũ. Nó không tương ứng. Trên thực tế, hình ảnh cái lò gạch cũ bắt đầu xuất hiện từ đầu phần chính của cốt truyện, nói về xuất thân của Chí, một đứa trẻ bị bỏ rơi từ lúc chào đời trong cái váy đụp, bên cái lò gạch cũ bỏ không. Cho nên khi hình ảnh cái lò gạch cũ xuất hiện trong trí óc của thị Nở sau khi Chí Phèo chết chỉ là sự lặp lại như một điềm báo, một khả năng của thực tại sẽ kéo dài mãi mãi, không có điểm dừng. Và Chí Phèo là hiện tượng mang tính quy luật, vốn là sản phẩm của xã hội và của bản thân hắn. Cái lò gạch xác minh ngay vị trí bên lề, bị ruồng bỏ, bị đẩy ra rìa không thương tiếc của con người được sinh ra không theo mong muốn. Nó cho thấy một cái vòng luẩn quẩn của xã hội và phận người khi chưa thay đổi tận gốc, bản chất kiến trúc thượng tầng. Những số phận người lặp lại, có thể là những biến thể khác nhưng cùng bản chất khiến vấn đề đặt ra mang tầm bao quát, mang chiều sâu triết lý về quy luật vận động của cuộc sống, xã hội trong các mối quan hệ tương tác qua lại con người – xã hội, con người – người khác, con người với bản thân. Cái lò gạch cũ trở thành biểu tượng cho motip bắt đầu, tạo sinh, cái khởi nguyên. Một Chí Phèo này chết sẽ là sự khởi sinh cho biết bao Chí Phèo khác bởi đời còn những Bá Kiến thì vẫn còn Chí Phèo. Xã hội còn quần ngư tranh thực và định kiến nặng nề thì còn bi kịch của kẻ bên lề, cái khác, cái dị biệt.

Và như vậy truyện ngắn Chí Phèo đã thay đổi hoàn toàn ý nghĩa mô hình hóa phần mở đầu và kết thúc so với motip thông thường. Bởi mở đầu của tác phẩm đã là cái chung cục, là kết quả đã xong xuôi, hoàn tất, Chí Phèo vĩnh viễn đẩy ra bên lề, thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại; kết thúc mở ra những khả năng tạo sinh mới, là cái khởi nguyên. Chí Phèo chết, Bá Kiến chết nhưng những Chí Phèo, Bá Kiến khác thì vẫn còn nhiều, thậm chí tồn tại vĩnh viễn nếu không có hành động mang tính cách mạng toàn diện giải trật tự trung tâm đương thời. Truyện hết nhưng cuộc sống vẫn diễn ra, tiếp nối. Kết thúc nhưng cái ác, mầm xấu không bị tiêu diệt mà còn có thể chồi lên, nhiều hơn, tàn bạo hơn. Điều này khiến Chí Phèo mang tư duy, tính chất của một tiểu thuyết, nói tới hiện thực đang diễn ra, chưa hoàn tất, luôn luôn dang dở. Nó chính như cuộc sống, là cuộc sống luôn vận động, chuyển biến không ngừng trong từng ngóc ngách, nhất là ở những phận người cá nhân, những vấn đề thế sự và thời sự. Bởi con người, quyền sống là người, nhân tính, nhân phầm không phải chuyện của riêng thời nào, và ở phương diện nào đó thì sự tha hóa, biến dạng của con người bắt nguồn từ xa xưa, sẽ còn tiếp diễn tới mãi mãi về sau.

Với ngôn ngữ và nghệ thuật tự sự độc đáo, Nam Cao đã tạo nên một thế giới nghệ thuật riêng, mang tính khái quát cao, thể hiện những vấn đề muôn thuở về cuộc sống và con người trong Chí Phèo. Do đó tác phẩm vừa mang tính hiện thực cao, vừa mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, thể hiện những trăn trở của nhà văn về quyền sống, về vấn đề nhân tính, nhân phẩm của con người trong xã hội “quần ngư tranh thực” và định kiến nặng nề. Các yếu tố đặc sắc của nghệ thuật tự sự cũng mang đến một cái nhìn, một góc tiếp cận mới mẻ, mang tính khám phá, phát hiện sâu sắc về hiện thực và phận người trong hình thái xã hội đặc thù. Bên cạnh đó, việc kiến tạo ngôn ngữ chính là tạo nên mã nghệ thuật cho tác phẩm, một hình thức diễn đạt phù hợp với diễn ngôn tự sự, khiến tác phẩm như một dụ ngôn về thân phận, kết tinh tư tưởng, quan niệm nghệ thuật về con người, quan niệm thẩm mỹ độc đáo. Tất cả những điều đó đã làm nên một Chí Phèo, một mô hình cấu trúc thể loại gắn với những cách tân, sáng tạo lớn của Nam Cao về mặt nghệ thuật theo xu hướng tự sự hiện đại, mang đậm chất đối thoại, đa thanh, phức điệu.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 11 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo