Ta có: xy(x + y) + 2 chia hết cho 3.
Điều này có nghĩa là: xy(x + y) chia 3 dư 1.
Trường hợp 1: Trong x và y có ít nhất một số chia hết cho 3.
Giả sử x chia hết cho 3 (trường hợp y chia hết cho 3 tương tự).
Khi đó, xy chia hết cho 3.
Suy ra, xy(x + y) chia hết cho 9 (vì có một thừa số chia hết cho 9).
Trường hợp 2: Cả x và y đều không chia hết cho 3.
Khi đó, x và y chia 3 dư 1 hoặc 2.
Trường hợp a: Nếu x và y cùng chia 3 dư 1.
Khi đó, x = 3k + 1 và y = 3m + 1 (với k, m là số nguyên).
Thay vào biểu thức xy(x + y), ta được: xy(x + y) = (3k + 1)(3m + 1)(6k + 6m + 2) = 9(k + m + 1)(2km + k + m) + 2.
Dễ thấy, 9(k + m + 1)(2km + k + m) chia hết cho 9, mà 2 chia 9 dư 2.
Vậy xy(x + y) chia 9 dư 2, trái với giả thiết ban đầu.
Trường hợp b: Nếu x và y chia 3 dư khác nhau (một số chia 3 dư 1, số còn lại chia 3 dư 2).
Tương tự như trường hợp a, ta cũng chứng minh được xy(x + y) chia 9 dư 2, trái với giả thiết ban đầu.
Từ các trường hợp trên, ta thấy rằng trong mọi trường hợp, xy(x + y) đều chia hết cho 9.
Vậy, ta có: xy(x + y) + 2 chia hết cho 9.