Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Hãy phân tích bài thơ Tiến sĩ giấy

hãy phân tích bài thơ " Tiến sĩ giấy" (ngắn bằng một mặt giấy của Kl.ong) của
1 trả lời
Hỏi chi tiết
28
Tham khảo câu trả lời từ Trợ lý ảo Lazi
Bài thơ "Tiến sĩ giấy" của tác giả Gao Xiong (Gao Xiong) phản ánh một cách sâu sắc và châm biếm những vấn đề xã hội, đặc biệt là thực trạng học hành và bằng cấp trong xã hội Việt Nam. Dưới đây là một số điểm phân tích chính của bài thơ.

### 1. Chủ đề:
**Bằng cấp và thực trạng giáo dục:** Bài thơ đặt ra câu hỏi về giá trị thực của những tấm bằng cấp trong xã hội hiện đại. Tác giả sử dụng hình ảnh "tiến sĩ giấy" để châm biếm những người có bằng cấp nhưng không có thực tài, không có kiến thức thực sự.

### 2. Ngôn ngữ và hình ảnh:
**Hình ảnh hài hước và châm biếm:** Tác giả dùng từ ngữ nhẹ nhàng nhưng sắc sảo, tạo nên những hình ảnh hài hước, đầy ẩn dụ để thể hiện sự mỉa mai về việc học để lấy bằng hơn là học để biết.

### 3. Ý nghĩa xã hội:
**Sự mất giá của tri thức:** Bài thơ phản ánh sự xuống cấp của tri thức trong xã hội, khi mà những người có bằng cấp không thực sự có khả năng chuyên môn. Điều này đặt ra một thách thức lớn cho hệ thống giáo dục và xã hội trong việc đánh giá đúng giá trị của con người.

### 4. Tâm tư tác giả:
**Nỗi trăn trở:** Qua bài thơ, ta có thể thấy được nỗi trăn trở của tác giả về tình hình giáo dục và con đường phát triển của xã hội. Tác giả không chỉ châm biếm mà còn bày tỏ nguyện vọng về một nền giáo dục thực chất, nơi mà tri thức và năng lực được coi trọng.

### Kết luận:
Bài thơ "Tiến sĩ giấy" không chỉ phản ánh một thực trạng trong xã hội mà còn mang giá trị tư tưởng sâu sắc, kêu gọi mọi người nhìn nhận lại giá trị của tri thức và những nỗ lực trong học tập. Tác phẩm như một lời nhắc nhở về việc xây dựng một nền giáo dục thực chất, hướng tới sự phát triển bền vững cho xã hội.
0
0
Thiên An
hôm qua
+5đ tặng

    Tam nguyên Yên Đổ cũng là người có nhiều bài thơ mang ý vị tự trào vào loại hay và tiêu biểu nhất trong văn học dân tộc. Tiến sĩ giấy chính là một trong những tác phẩm như vậy. Bài thơ thể hiện tài năng nghệ thuật của một tác gia trào phúng bậc thầy và mang ý nghĩa thời đại rõ rệt.

    Xã hội mà Nguyễn Khuyến sống là xã hội thực dân nửa phong kiến với những biểu hiện lố lăng, kệch cỡm. Ở đó mọi giá trị đạo đức truyền thống đã bị đảo lộn, còn cái mới lại mang bộ mặt của kẻ xâm lược. Ngòi bút thâm trầm mà sâu cay của Nguyễn Khuyến đã chĩa mũi nhọn vào những chỗ hiểm yếu nhất của cái ung nhọt đó. Trong Tiến sĩ giấy nhà thơ đã đem ra trào phúng, châm biếm, hạ bệ thần tượng cao nhất của cả một thể chế xã hội đã tồn tại hàng mấy trăm năm – ông tiến sĩ. Đây là một nhân vật rất quen thuộc của xã hội phong kiến Việt Nam.

    Đạt đến học vị tiến sĩ là niềm vinh quang không chỉ của bản thân từng con người mà của cả một dòng họ, một địa phương, được cả xã hội vinh danh, khoác lên mình những ánh hào quang chói lọi. Đó vốn là những con người có tài năng, chứa đựng trong mình những tri thức của thời đại và tất cả những tài năng và tri thức đó sẽ được đem ra để phục vụ đất nước, phục vụ xã hội.

     Đã có biết bao ông tiến sĩ trở thành trụ cột của đất nước, của dân tộc, trở thành nguyên khí quốc gia, được ghi tên tuổi, công trạng trên bia đá, sử xanh. Nhưng đến thời đại của Nguyễn Khuyến mọi chuyện đã thay đổi, những giá trị truyền thống đã dần mai một, hoặc đang từng bước đổ vỡ. Nho học, khoa cử đã xuống cấp, không còn được coi trọng, mọi thứ đã có thể dùng tiền để mua bán, đổi chác, xuất hiện trong xã hội nhiều kẻ chỉ có hư danh mà không có thực học. Kẻ có thực tài, chữ nghĩa đầy mình thì học vị tiến sĩ chỉ còn là cái danh hão, cũng đành khoanh tay ngồi nhìn thời cuộc xoay vần, kiến thức sách vở cũ rích không còn có ích lợi gì trong một bối cảnh mới. Tất cả những điều đó đã được Nguyễn Khuyến thể hiện trong bài thơ Tiến sĩ giấy bất hủ của ông.

    Nhìn trên ý nghĩa bề mặt văn bản bài thơ có thể thấy đối tượng mà Tam nguyên Yên Đổ hướng tới để tạo nên tiếng cười là những đồ chơi dân gian – hình nộm ông tiến sĩ làm bằng giấy dành cho trẻ con trong những dịp tết trung thu. Làm loại đồ chơi này, các nghệ nhân dân gian muốn khơi dậy ở trẻ em lòng hiếu học và ý chí phấn đấu để đạt tới vinh quang của nền học vấn thời đại, cống hiến tài năng cho đời, đem lại niềm vui cho ông bà, cha mẹ, vinh quang cho dòng họ, tổ tiên. Như vậy, hình ảnh ông nghè tháng Tám là một hình ảnh mang tính truyền thống rất đẹp. Ở hai câu đề, Nguyễn Khuyến chưa nói thẳng cho người đọc biết rõ người được ông giới thiệu trong bài thơ là ai. Nhân vật này có đủ cờ, biển, cân, đai, lọng xanh, ghế chéo đích thị là một vị tiến sĩ oai phong mới được ghi danh đỗ đầu trên bảng rồng:

   Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,
   Cũng gọi ông nghè có kém ai.

   Biển là tấm gỗ sơn son thếp vàng có khắc bốn chữ "ân tứ vinh quy". Cẩn là cái khăn. "Đai" là cái vòng đeo ngang lưng ở ngoài áo chầu. Hết thảy đều là những thứ cao quý vua ban cho người đỗ tiến sĩ để vinh quy bái tổ. Nhân vật có vẻ bề ngoài vừa uy nghi, vừa phô trương tự đắc. Tuy nhiên, điệp từ cũng xuất hiện với mật độ dày đặc và ẩn chứa ý vị mỉa mai bắt đầu bộc lộ thái độ của tác giả, khiến cho ta thấy có điều gì đó bất thường ở vị tiến sĩ này. Từ "cũng" được nhấn mạnh, được đưa lên đầu câu, chỉ sự giống nhau, lặp lại của hiện tượng, kết hợp với ba từ "có kém ai" khiến cho con người có học vị cao này có cái vẻ của sự giả dối, học đòi. Đến hai câu sau mọi việc đã trở nên rõ ràng hơn. Nhân vật "cũng biển cũng cân đai" kia hóa ra chỉ là một ông tiến sĩ giấy, bề ngoài giống hệt như tiến sĩ thật nhưng thực chất bên trong lại rỗng tuếch chẳng có gì. Cái chất liệu làm nên con người ông đơn giản chỉ là từ mấy mảnh giấy và một ít son diêm dúa:

   Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,
   Nét son điểm rõ mặt văn khôi.

     Trong hai câu thực này, nghệ thuật đối được Nguyễn Khuyến sử dụng hết sức đắc địa. "Mảnh giấy" đối với "thân giáp bảng", "nét son" đối với "mặt văn khôi". "Giáp bảng" là bảng công bố kết quả thi cử ngày xưa, còn được gọi một cách trang trọng là bảng rồng. "Thân giáp bảng" là người đỗ đạt cao nhưng thực chất ở đây chỉ được chế tác từ một mảnh giấy vụn. Còn chỉ bằng vài "nét son" là có thể tạo nên "mặt văn khôi" – chỉ người đứng đầu làng văn. Nguyễn Khuyến đã đặt những sự vật có giá trị khác hẳn nhau vào trong một kết cấu song hành, đối lập, cho mọi người thấy được việc tạo ra một ông tiến sĩ giả bằng giấy thực chẳng khó khăn gì, qua đó thể hiện tính chất rẻ mạt, vô nghĩa của danh hiệu tiến sĩ thực của cái thời cuối phong kiến đầu thực dân này.

     Ông nghè tháng Tám có diện mạo bên ngoài giống hệt như tất cả các ông tiến sĩ thật nhưng cái thực học chỉ nhẹ hều như mảnh giấy và vết son mà thôi. Nhà thơ đã mượn hình ảnh của ông tiến giấy để nói về ông tiến sĩ thật đương thời, vạch trần bản chất giả dối của đối tượng bằng cách chỉ ra mâu thuẫn giữa hình thức bề ngoài lộng lẫy, hào nhoáng được che giấu hết sức tinh vi và cái thực chất bên trong sáo rỗng, đáng thương hại của nhân vật.

   Đối với kẻ theo đòi chuyện học hành thì danh hiệu tiến sĩ là niềm vinh quang mà muốn đạt được nó thì người quân tử phải không ngừng tự học hành rèn luyện, có tri thức thông kim bác cổ, có tài năng xuất chúng để ra giúp dân, giúp nước. Có biết bao người đã theo đòi học hành chăm chỉ suốt đời mà vẫn không đạt được vinh hạnh đó. Nhưng nay thì đã khác, cái danh hiệu ấy đã bị người đời coi thường, khinh rẻ:

   Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ,
   Cái giá khoa danh ấy mới hời.

    Đến hai câu luận này, Nguyễn Khuyến dường như đã chuyển từ việc mô tả khách quan sang việc đánh giá chủ quan. Chỉ qua hai cụm từ cảm thán: "sao mà nhẹ", "ấy mới hời" dường như giá trị của ông nghè đã có thể mang ra cân đo, đong đếm. Ngày xưa kẻ lao tâm khổ tứ để đỗ đạt khoác trên thân tấm áo vua ban mà cảm thấy trách nhiệm nặng nề, thì nay kẻ mua danh bán tước khoác lên mình tấm áo ấy mà sao lại thấy nhẹ bẫng. Đơn giản bởi nó là thứ giả. Không phải ngẫu nhiên khi mô tả một ông tiến sĩ bằng giấy nhưng nhà thơ vẫn phải luôn gắn vào đó từ "thân" (thân giáp bảng) hoặc "tấm thân" (tấm thân xiêm áo), chính để tạo nên sự so sánh. Nhưng sao những lời lẽ tưởng như chủ quan chế giễu, mỉa mai trên lại như cũng đang nhuốm những ngậm ngùi, chua chát, cảm thán thời thế và nhà thơ dường như đang buồn cho chính mình vậy?

   Sáu câu thơ trên như một chiếc đòn bẩy để hai câu thơ cuối buông ra một lời kết luận khiến người đọc bàng hoàng:

   Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe,
   Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi.

      Ở đây, thêm một lần nữa tác giả tiếp tục khắc họa sâu thêm sự đối lập, tương phản gay gắt giữa cái bên ngoài và bản chất thật của ông tiến sĩ. Cụm từ ghế chéo lọng xanh vẫn gây cho người đọc ấn tượng về dáng vẻ oai vệ vốn có của nhân vật có học vấn cao nhất đương thời. Nhưng lần nâng lên cuối cùng này cũng sẽ là lần Nguyễn Khuyến giáng cho đối tượng trào phúng đòn hạ bệ chí mạng nhất. Giọng điệu mỉa mai, hài hước của hai chữ bảnh chọe đã giết chết, đã vạch rõ cái oai phong của vị tiến sĩ kia thực chất chỉ là cái mẽ giả dối bên ngoài:

   Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi.

     Thật là một hình ảnh thảm hại! Cái kẻ mà ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe ấy hóa ra là một thứ con rối chịu để kẻ khác giật dây mà thôi. Cái xã hội bát nháo ấy, cái thứ triều đình bù nhìn toàn những quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề ấy nhất định chỉ có thể sản sinh ra cái thứ hàng mã này. Mà cái kẻ đứng đằng sau giật dây tất cả lũ rối người ấy từ trên xuống dưới không ai khác chính là bè lũ thực dân cướp nước. Nguyễn Khuyến đã nhìn thấy tất cả điều đó và ông kín đáo đưa ra trào phúng đại diện ưu tú nhất nhưng đã trở nên lỗi thời của cái thể chế đó.

     Tam nguyên Yên Đổ đã táo bạo đưa vào trong thơ mình những hư từ, lời nói khẩu ngữ kiểu như: "cũng… cũng", "kém ai", "sao mà nhẹ", "ấy mới hời", "tưởng rằng"…, đưa chất văn xuôi, chất thế tục vào trong một thể thơ có tính ước lệ, tượng trưng cao như thơ Đường luật, khiến cho thể thơ này trở nên gần gũi hơn, giàu giá trị hiện thực hơn. Nhà thơ phát hiện mâu thuẫn đáng cười ở đối tượng qua những nét đối lập của sự đồng dạng, giống nhau, (tiến sĩ thật – tiến sĩ giấy). Đó là những mâu thuẫn, những điều lố bịch gây cười có ngay trong bản thân đối tượng mà chính nó không hề ý thức được.

     Lối trào phúng của ông già Yên Đổ là lối trào phúng gián tiếp, kín đáo và thâm thúy, ý định trào phúng của người viết không bộc lộ trên bề mặt văn bản mà chìm sâu sau những hình ảnh và từ ngữ. Muốn hiểu được tiếng cười của ông, buộc phải qua những bước “giải mã”, suy đoán, bóc tách từng lớp ngôn từ, ẩn ngữ với những ẩn dụ, phúng dụ… Để nhận ra thực chất của loại tiến sĩ thật dưới chế độ nửa thực dân phong kiến thì phải có tri thức về thứ đồ chơi trung thu của trẻ nhỏ – hình nộm ông nghè tháng Tám; hay muốn biết về thân phận vua hề, quan nhọ dưới chế độ thực dân nô lệ thì phải hiểu nghệ thuật chèo, đặc biệt là hề chèo (bài thơ Lời vợ người hát phường chèo) v.v…

     Rõ ràng, để có được sự thành công khi sử dụng lối trào phúng này, tác giả phải là người trong cuộc, phải am hiểu đối tượng, nếu không sẽ tạo nên những cú đánh trượt. Nguyễn Khuyến hiểu đối tượng sâu sắc như vậy chính vì ông là con đẻ của chế độ khoa cử triều Nguyễn và là người đạt đến đỉnh cao vinh quang của học vấn đương thời. Nhưng con người ấy đã dần đánh mất niềm tin vào chế độ, vào triều đình, vào vốn học vấn của mình trước thực tế lịch sử, khi mà tất cả vũ khí vật chất và tinh thần, tất cả thế ứng xử truyền thống tồn tại hàng ngàn năm của dân tộc đã bị kẻ thù mới bẻ gãy một cách dễ dàng.

    Ông cũng cảm thấy nghi ngờ cả tài năng, sức lực của lớp người đại diện cho tinh hoa của chế độ ấy và nghi ngờ chính bản thân mình. Bởi trong số những ông nghè tháng Tám hết thời ấy có cả bản thân Nguyễn Khuyến nhưng tất nhiên ông Tam Nguyên Yên Đổ hoàn toàn khác với những kẻ hữu danh vô thực đương thời. Điều ấn tượng và độc đáo ở đây là cái hài hước ấy xuất phát từ trong lòng đối tượng bị phê phán. Sự phủ định rõ ràng còn có thêm màu sắc tự phủ định. Tính bi hài của hình tượng văn học nhờ vậy càng trở nên sâu sắc gấp bội.

    Tính tự trào của bài thơ cũng hé mở cho ta nhận thấy, nghe thấy, chứng kiến một cuộc đối thoại và một cuộc tự đối thoại của nhà thơ với chính mình – tiếng nói phản tỉnh của một người trong cuộc. Đó cũng chính là tiếng nói phản chính thống, một hành vi tưởng như là nói ngược nhưng thực chất lại phản ánh một cách chính xác nhất bản chất của xã hội và sự tha hóa của lớp người đại diện cho tinh hoa của thể chế đương thời.

    Tiến sĩ giấy là biểu hiện rõ nhất của tiếng nói tự trào. Nguyễn Khuyến đã lấy việc khách thể hóa bản thân để bộc lộ tâm trạng mình. Tiếng nói lưỡng phân đa chiều, vừa hướng nội, vừa hướng ngoại này chỉ có được khi con người tự ý thức được tình trạng bi hài của mình trước thực tế lịch sử, nó bộc lộ những day dứt, trăn trở, những mâu thuẫn trong chính bản thân nhà thơ, bỏ xa kiểu con người đơn nhất trong văn chương trung đại. Trong văn học trào phúng, phê phán và phủ định điều này cũng chính là để khẳng định, bảo vệ một chân lý nào đó. Nguyễn Khuyến châm biếm, đả phá cái giả Nho, cái vô dụng, chính là để khẳng định cái chân Nho, khẳng định những giá trị truyền thống của dân tộc, khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của riêng mình để tự phản tỉnh trước thực tế của sự khủng hoảng các giá trị đạo đức đương thời.

     Mỹ học về cái hài dường như không bao quát hết những sắc thái đa diện của thi tài Nguyễn Khuyến. Trong Tiến sĩ giấy nói riêng và trong thơ tự trào của ông nói chung, cái hài thường bị cái bi lấn át. Điều đó cũng khiến cho tính trữ tình, sự kết hợp giữa hai phẩm chất trào phúng và trữ tình trong các bài thơ trào phúng của ông trở nên nhuần nhuyễn, ý thơ như còn đọng mãi trong lòng người đọc. Vì vậy, Nguyễn Khuyến tự trào, tự giễu cợt mình, về mặt khách quan, cũng chính là đang trào phúng cả một tầng lớp đại diện cho một xã hội thối nát, một nền học vấn đã hết thời, và một giai cấp đang từng bước chấm dứt vai trò lịch sử. Danh vị tiến sĩ nay đã trở thành trò hề, trở thành thứ đồ chơi để dứ thằng cu, mà mỗi lần nhìn thấy thứ hình nộm ấy, vị Tam nguyên lừng lẫy một thời, vị quan đại thần của triều đại đương thời lại cứ tưởng như người ta đang đem mình ra để bỡn cợt:

   Rõ chú hoa man khéo vẽ trò
   Bỡn ông mà lại dứ thằng cu.

                    

   Nghĩ mình cũng gớm cho mình nhỉ
   Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng.
Xem thêm tại: https://loigiaihay.com/phan-tich-bai-tho-tien-si-giay-cua-nguyen-khuyen-c38a4455.html

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 8 mới nhất
Trắc nghiệm Ngữ văn Lớp 8 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k