Câu 1: Bài thơ được viết theo thể thơ nào?
B. Thất ngôn bát cú Đường luật
Câu 2: Phương thức biểu đạt chính trong bài thơ là gì?
A. Biểu cảm
Câu 3: Bài thơ có giọng điệu như thế nào?
B. Trào phúng, miả mai
Câu 4: Bài thơ đã nêu lên những thực trạng gì của xã hội?
B. Hiện tượng tiêu cực trong thi cử
Câu 5: Bài thơ có bố cục gồm mấy phần? Nêu nội dung chính của mỗi phần.
Bài thơ có bố cục gồm 2 phần:
Phần 1 (2 câu thơ đầu): Miêu tả sự mệt mỏi, sự khổ sở của các sĩ tử trong kỳ thi.
Phần 2 (4 câu thơ tiếp theo): Chế giễu những người đã đỗ đạt trong kỳ thi, chỉ trích sự giả dối trong xã hội phong kiến.
Câu 6: Trong hai câu thơ đầu, tác giả đã dùng những từ ngữ nào để gọi các sĩ tử? Nêu sắc thái nghĩa của các từ ngữ đó.
Các sĩ tử được gọi là “đàn thẳng hỏng”, từ “hỏng” ở đây mang ý nghĩa chê bai, coi thường, thể hiện sự khinh miệt đối với những sĩ tử không đỗ đạt. “Đàn thẳng” là cách nói miệt thị về đám người đi thi, cho thấy họ giống như những con vật bị chê bai.
Câu 7: Phân tích tác dụng của phép đối được sử dụng trong bài thơ.
Phép đối được sử dụng trong bài thơ nhằm tạo ra sự đối lập rõ rệt giữa các nhân vật và hành động trong xã hội, ví dụ như giữa “đàn thẳng hỏng” và “ông cử ngóng đầu rồng”. Sự đối lập này giúp nhấn mạnh sự mỉa mai, chỉ trích những giá trị sai lầm trong xã hội thi cử.
Câu 8: Từ "bà đầm" trong bài thơ này có gì khác với từ "mụ đầm" trong bài thơ "Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu"?
"Bà đầm" trong bài thơ “Giễu người thi đỗ” có sắc thái nhẹ nhàng hơn và không có sự miệt thị mạnh như “mụ đầm” trong bài "Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu". Tuy nhiên, cả hai từ đều chỉ những người phụ nữ tham gia vào các kỳ thi, nhưng “bà đầm” ít có tính chê bai hơn so với “mụ đầm” – từ này thể hiện sự khinh miệt hơn.
Câu 9: Giọng điệu của tiếng cười trào phúng trong bài thơ là gì? Những dấu hiệu nào giúp em nhận ra điều đó?
Giọng điệu của tiếng cười trào phúng trong bài thơ là sự chỉ trích, mỉa mai các thực trạng xã hội, đặc biệt là trong kỳ thi. Dấu hiệu nhận ra điều này là các từ ngữ miệt thị, sự đối lập giữa vẻ ngoài trang trọng với thực tế đầy giả dối, sự khốn khổ của các sĩ tử.
Câu 10: Vì sao các sĩ tử đỗ đạt lại trở thành đối tượng bị chế giễu?
Các sĩ tử đỗ đạt trở thành đối tượng bị chế giễu vì trong xã hội phong kiến, thi cử không phản ánh thực chất tài năng và phẩm hạnh mà có thể bị chi phối bởi nhiều yếu tố như tiền bạc, quyền lực. Việc đỗ đạt không phải là kết quả của nỗ lực học hành mà là biểu hiện của sự giả dối, không công bằng trong xã hội.
II. VIẾT
Câu 1: Có ý kiến cho rằng: Trong xã hội thực dân nửa phong kiến, khi đạo học xuống cấp thì cả người thi đỗ và người không thi đỗ đều cảm thấy buồn và nhục nhã. Em có đồng tình với ý kiến này không? Vì sao? Trình bày bằng một đoạn văn 7-10 câu.
Trong xã hội thực dân nửa phong kiến, hệ thống thi cử bị ảnh hưởng bởi những bất công xã hội. Người thi đỗ không hẳn là tài giỏi mà đôi khi là kết quả của sự xu nịnh, tham nhũng. Điều này khiến cho những sĩ tử đỗ đạt cảm thấy nhục nhã vì họ không thể tự hào về khả năng của mình, mà chỉ có thể tự an ủi bằng cách cố gắng sống xứng đáng với danh hiệu mà họ có được. Trong khi đó, những sĩ tử không đỗ lại càng cảm thấy buồn bã, tủi thân vì họ không chỉ thất bại trong việc đạt được danh vọng mà còn cảm thấy mình bị loại bỏ, không được công nhận dù đã nỗ lực hết sức. Tình trạng này dẫn đến một cảm giác chung giữa những người thi đỗ và không đỗ, đó là sự thất vọng và nhục nhã trước sự xuống cấp của nền giáo dục và xã hội. Vì vậy, tôi đồng tình với ý kiến này.
Câu 2: Phân tích bài thơ “Giễu người thi đỗ” của Trần Tế Xương.
Bài thơ "Giễu người thi đỗ" của Trần Tế Xương là một tác phẩm trào phúng sắc bén, thể hiện thái độ chỉ trích của tác giả đối với những thực trạng bất công trong kỳ thi cử của xã hội phong kiến. Trần Tế Xương không chỉ phê phán sự giả dối trong nền giáo dục mà còn lên án những sĩ tử đã đỗ đạt mà không thực sự xứng đáng với danh hiệu của mình. Thông qua hình ảnh "đàn thẳng hỏng" và "ông cử ngóng đầu rồng", tác giả sử dụng phép đối để tạo ra sự mỉa mai, nhấn mạnh sự khốn khổ và nhục nhã của những người tham gia thi cử trong xã hội. Các từ ngữ như "bà đầm", "mẹ vợ", "đầu rồng" đều có sắc thái mỉa mai, thể hiện sự chế giễu đối với những người không thực sự có tài mà chỉ dựa vào quyền lực, tiền bạc để đạt được thành công. Với giọng điệu trào phúng, bài thơ đã tố cáo và chỉ trích sâu sắc những bất công trong xã hội phong kiến, đồng thời khẳng định sự xuống cấp của nền giáo dục và nhân phẩm trong xã hội đó.