ĐỌC HIỂU Đọc văn bản: MỘT TIỆC ĂN VẠ (Lược 1 đoạn: Nhân vật tôi đi đến chợ Đình ở làng Đ.G thì nghe người làng người ta tiếng to tiếng nhỏ, nhao nhao nói chuyện với nhau bàn tán về chuyện nhà ông Sửu) Còn nữa! Làn sóng dư luận còn kéo dài mãi ở dọc đường. Nhưng nó mỗi lúc mỗi theo những gánh gà lợn, rau gạo đi xa dần, nên khi bay lại tai tôi, không còn rõ là tiếng gì nữa. Cố nhiên tôi không có ý nghe chi những chuyện giữa trời, nhưng vì nó đã ngẫu nhiên lọt vào tai, tôi cũng ngẫu nhiên bận óc vì nó. "Chắc là trong làng đã có người nào bị đánh bị trói gì đây". Với câu phỏng đoán đó vơ vẩn trong óc, tôi lững thững đi vào cổng làng. Người làng ở trong các xóm, lũ lượt kéo ra con đường giữa làng, già có, trẻ có, con nít cũng có. Trái lại với quang cảnh của đoạn đường lúc nãy, ở đây rất nhiều đàn ông, thỉnh thoảng mới có một người đàn bà. Với những tiếng cười cười, nói nói, vui như đám hội, người ta đổ xô về nẻo cuối làng. Xen lộn vào sự xôn xao của đám đông người, ở trong các xóm, lại có tiếng lợn eng éc. "Không phải là chuyện đánh nhau, trói nhau, có lẽ người ta sắp sửa có cuộc ăn uống. Phải rồi, hôm nay đàn ông vì bận ăn uống, nên mới nhường hết quyền đi chợ Đình cho bọn đàn bà, đoạn này toàn là đàn ông", tôi vừa cải chính cái câu của tôi phỏng đoán mới rồi, vừa im lặng đi theo một con đường với lũ người ấy. Và tôi đã từ biệt họ khi đến khỏi đình: họ đi tấp nập kéo vào điếm đình, thì tôi rẽ sang nhà Khóa Trúc, người bạn đồng học với tôi năm xưa. Bởi vì chúng tôi có hẹn trước nên lúc ấy anh Trúc đương vơ vẩn đón tôi ở chỗ đầu ngõ. Đường đi tuy rằng hơi xa, nhưng nhà anh này lại ở kề với sân điếm và chỉ cách khu điếm một bức rào bằng găng tây. Vào ngồi trong nhà anh ấy, tôi còn thấy rõ hết thảy cảnh tượng trong điếm. Cái điếm rộng quá! Ngoài một tòa chính ở giữa lại có hai tòa giải vũ kèm ở hai đầu, mỗi tòa độ bốn năm gian. Đám người lúc nãy lần lượt tiến vào đến cửa điếm. Các ông già và người cao tuổi lên thẳng tòa chính, còn người ít tuổi và đám con nít thì xuống hai tòa giải vũ. Giây lát, ba bọn đàn ông lực lưỡng khiêng ba con lợn bị trói đặt vào trước sân, và một lũ người khác đài tải tới đó đủ hết các thứ: bát, đĩa, dao, thớt, rổ, rá và nồi ba mươi. Rồi đó, bọn này bắc nồi đun nước, bọn kia đè lợn chọc tiết. Bắt đầu câu chuyện, tôi phải hỏi ngay anh Trúc: - Đám ấy là đám gì, đám gì mà có đủ từ ông bạc đầu đến lũ trẻ con! Anh Trúc mỉm cười đáp: - Đó là một đám ăn vạ! Rồi vừa pha nước, anh ấy vừa tiếp: - Cái tục ăn vạ, thiên hạ cũng nhiều nơi có. Nhưng mà có lẽ không đâu nặng bằng làng tôi. Bởi vì theo lệ làng tôi, quyền hành của bốn "trùm nhất" lớn lắm, bao nhiêu công việc trong làng đều do bọn họ quyết định, lý dịch cũng phải theo họ. Người nào cưỡng lại với họ, ấy là họ sẽ tìm cách ăn vạ. Như đã thấy tôi không hiểu "ăn vạ" là gì, anh Trúc uống cạn chén nước rồi thêm: - Chắc anh chưa được chứng kiến cuộc ăn vạ nào thì phải! Có gì đâu, người nào có lỗi với "làng" thì "làng" cứ việc mua lợn, mua rượu, mua gạo đem ra điếm làng mà ăn. Phí tổn bao nhiêu, người có lỗi đó phải chịu. Hôm nay họ ăn vạ lão Sửu. Tội nghiệp! Lão ấy hiền lành, thật thà nhất làng tôi đấy! Chỉ vì nhà đã lép vế, lại có bát ăn, một hôm một ông trong bốn ông "trùm" đến nhà hỏi vay gánh lúa, lão ta đi vắng, mụ vợ chối là không có, ông trùm kia lấy làm thù, cách vài hôm sau hắn mượn việc làng sinh sự cãi nhau với lão ấy, rồi hắn vu cho lão ta chửi làng và đem chuyện đó trình "làng". "Làng" là bọn đó chứ có ai đâu! Chúng với hắn cũng như một đào một kép, cho nên khi thấy hắn trình, chúng liền hùa nhau bắt vạ lão Sửu. Anh Trúc rót chén nước nữa cho tôi, rồi tỏ vẻ ái ngại: - Cuộc ăn vạ này, chúng làm hại lão ta đến hơn trăm bạc. Bởi vì chúng ăn to lắm, ăn suốt từ trên đến dưới. Những đứa con nít toét mắt, ỏng bụng mà anh thấy đó, cũng đều được ăn tất cả. Chúng nó cũng là "làng". Hễ ai là "làng", hôm nay đều được ra ăn, chỉ trừ đàn bà và những trẻ con ẵm ngửa. Tôi vẫn chưa hiểu: - Thế thì những tiền mua lợn, mua rượu, mua gạo đó ai ứng ra cho làng? Anh Trúc trả lời: - Chẳng ai phải ứng hết thảy, họ đi mua chịu tất cả. Mà hễ họ đã hỏi mua, thì ai cũng bán. Bởi vì bán chịu cho "làng" như thế, sau này có thể tính với khổ chủ một giá rất cao và tính bao nhiêu, khổ chủ phải trả bấy nhiêu, không được bớt xén một đồng nào hết. - Nếu như khổ chủ không chịu thì sao? - Khổ chủ không chịu thì họ phải lấy tiền làng mà chi. Nhưng rồi họ sẽ họp làng tại đình, đóng chiếc đinh cù vào cột đình và phát thệ rằng: "Nhà ấy đã không thèm tuân lệ làng, từ sau trở đi, những lúc làng có ăn uống, không ai được ngồi với người nhà ấy, và rồi nhà ấy có người nào chết, bất kỳ đàn ông, đàn bà, họ xa, họ gần, làng sẽ không khiêng". Ở thôn quê, cái người lúc sống không ai ngồi với, lúc chết làng không khiêng cho, là người cực nhục, sống cũng như chết. Vì vậy từ xưa đến nay, họ đã ăn vạ người nào, người ấy cứ phải bán nghiệp mà trả. Không ai dám bướng. Anh ta đương nói, thì ở bên điếm, có tiếng nói lớn: - Thưa "chạ"! Hôm nay từ trên già lão đến dưới trai đinh, tất cả hơn hai trăm xuất, ăn ba con lợn có lẽ không đủ, xin "chạ" cho bắt thêm một con nữa. Thế rồi, một lúc sau, lại nghe có tiếng lợn kêu. Cuộc ăn uống linh đình mãi đến quá trưa mới tan. Chiều hôm ấy, tôi còn ở đó, đã có tin nói lão Sửu thắt cổ chết ở trong nhà, lý dịch còn đi khất quan về khám. (Nguyễn Công Hoan – trích Việc làng) Câu 1 Xác định ngôi kể trong văn bản. Bài làm
Câu 2 Văn bản trên thuộc thể loại nào? Những dấu hiệu nào giúp em nhận biết văn bản thuộc thể loại đó? Bài làm
Câu 3 Văn bản trên viết về chủ đề gì? Bài làm
Câu 4 Nêu 2 chi tiết, sự kiện hiện thực và thái độ đánh giá của người viết với các chi tiết đó. Bài làm
Câu 5 Nêu thông điệp mà văn bản muốn gửi đến người đọc qua văn bản trên. Bài làm
Bằng cách nhấp vào Đăng nhập, bạn đồng ý Chính sách bảo mật và Điều khoản sử dụng của chúng tôi. Nếu đây không phải máy tính của bạn, để đảm bảo an toàn, hãy sử dụng Cửa sổ riêng tư (Tab ẩn danh) để đăng nhập (New Private Window / New Incognito Window).
Đáp án chi tiết các câu hỏi về văn bản "Một tiệc ăn vạ" Câu 1: Xác định ngôi kể trong văn bản.
Đáp án: Ngôi kể thứ nhất.
Giải thích: Trong văn bản, người kể sử dụng đại từ nhân xưng "tôi", trực tiếp tham gia vào câu chuyện, kể lại những gì mình đã thấy, nghe và suy nghĩ. Điều này cho thấy đây là ngôi kể thứ nhất.
Câu 2: Văn bản trên thuộc thể loại nào? Những dấu hiệu nào giúp em nhận biết văn bản thuộc thể loại đó?
Đáp án: Văn bản thuộc thể loại phóng sự.
Dấu hiệu nhận biết:
Nội dung: Văn bản phản ánh chân thực một sự kiện xã hội cụ thể, đó là hiện tượng "ăn vạ" trong làng quê.
Ngôn ngữ: Ngôn ngữ sinh động, gần gũi với đời sống của người dân, sử dụng nhiều từ ngữ địa phương.
Cấu trúc: Có sự kết hợp giữa kể chuyện và miêu tả. Người kể trực tiếp tham gia vào sự kiện, kể lại những gì mình thấy, nghe, đồng thời miêu tả sinh động cảnh vật, con người.
Mục đích: Văn bản nhằm tố cáo một hiện thực xã hội bất công, phê phán cái xấu, cái ác.
Câu 3: Văn bản trên viết về chủ đề gì?
Đáp án: Văn bản viết về hiện tượng "ăn vạ" trong làng quê, tố cáo sự bất công, tàn ác của chế độ xã hội cũ, qua đó bộc lộ nỗi đau, sự bất lực của người dân.
Câu 4: Nêu 2 chi tiết, sự kiện hiện thực và thái độ đánh giá của người viết với các chi tiết đó.
Chi tiết 1: Cảnh người dân làng Đ.G kéo đến đình để ăn vạ lão Sửu, từ già đến trẻ, ai cũng tham gia.
Thái độ của người viết: Người viết miêu tả cảnh tượng này một cách khách quan nhưng ngầm chứa sự phê phán sâu sắc. Ông cho thấy sự vô cảm, tham lam của người dân trong việc tham gia vào việc ăn vạ người khác.
Chi tiết 2: Lão Sửu bị vu oan và phải chịu hậu quả nặng nề.
Thái độ của người viết: Người viết tỏ rõ sự thương cảm và bất bình trước số phận oan nghiệt của lão Sửu. Ông nhấn mạnh sự vô lý và tàn ác của hành vi ăn vạ, làm cho người đọc cảm thấy xót xa.
Câu 5: Nêu thông điệp mà văn bản muốn gửi đến người đọc qua văn bản trên.
Đáp án:
Văn bản "Một tiệc ăn vạ" muốn gửi gắm những thông điệp sau:
Tố cáo sự bất công, tàn ác của chế độ xã hội cũ: Qua việc miêu tả hiện tượng "ăn vạ", tác giả lên án sự bất công, ngang ngược của những kẻ có quyền lực, sự vô cảm, hùa theo của đám đông.
Phê phán những hủ tục, lạc hậu: Tục ăn vạ là một hủ tục lạc hậu, gây ra nhiều đau khổ cho người dân.
Khơi gợi lòng thương cảm cho những người bị oan ức: Qua hình ảnh lão Sửu, tác giả khơi gợi lòng thương cảm của người đọc đối với những người bị oan ức, bất công.
Kêu gọi sự công bằng, lẽ phải: Văn bản ngầm kêu gọi mọi người đấu tranh chống lại sự bất công, bảo vệ lẽ phải.
Tổng kết:
"Một tiệc ăn vạ" là một tác phẩm giàu tính hiện thực, có giá trị tố cáo sâu sắc. Qua câu chuyện về lão Sửu, tác giả đã phơi bày bộ mặt xấu xa của xã hội cũ, đồng thời khơi dậy lòng nhân ái và tinh thần đấu tranh cho công lý trong lòng người đọc.
Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời
(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi. Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Câu 1: Xác định ngôi kể trong văn bản. Ngôi kể trong văn bản là ngôi thứ nhất. Điều này thể hiện qua việc nhân vật "tôi" sử dụng đại từ nhân xưng "tôi" để kể lại câu chuyện và những suy nghĩ, cảm nhận của mình. Câu 2: Văn bản trên thuộc thể loại nào? Những dấu hiệu nào giúp em nhận biết văn bản thuộc thể loại đó? Văn bản trên thuộc thể loại truyện ngắn. Dấu hiệu nhận biết là câu chuyện được kể trong một không gian và thời gian ngắn, tập trung vào một sự kiện cụ thể trong đời sống nông thôn. Truyện có sự mô tả chi tiết, phản ánh hiện thực xã hội qua một sự kiện đặc trưng. Câu 3: Văn bản trên viết về chủ đề gì? Văn bản viết về chủ đề "tục ăn vạ" trong làng quê, nơi mà những người có quyền lực trong làng lợi dụng tục lệ này để trừng phạt, bắt bẻ người khác, gây tổn thất cho người bị ăn vạ. Từ đó, văn bản phản ánh sự tàn nhẫn và bất công trong xã hội phong kiến. Câu 4: Nêu 2 chi tiết, sự kiện hiện thực và thái độ đánh giá của người viết với các chi tiết đó.
Chi tiết 1: Cuộc ăn vạ mà lão Sửu phải chịu đựng, bị bắt phải mua lợn, rượu, gạo, chịu tổn thất tài chính.
Thái độ: Người viết thể hiện sự phê phán sâu sắc đối với sự tàn nhẫn và bất công của tục lệ này. Từ đó, bộc lộ sự bất mãn với những quyền lực áp bức trong xã hội.
Chi tiết 2: Cảnh lão Sửu thắt cổ chết sau khi bị ăn vạ.
Thái độ: Người viết cảm thấy thương xót và chỉ trích sự tàn nhẫn của người làng đối với lão Sửu, đồng thời khắc họa bi kịch của người bị áp bức. Câu 5: Nêu thông điệp mà văn bản muốn gửi đến người đọc qua văn bản trên. Thông điệp mà văn bản muốn gửi đến người đọc là lên án những hủ tục, sự tàn nhẫn và áp bức trong xã hội phong kiến. Văn bản cũng muốn phản ánh sự bất công trong xã hội, qua đó kêu gọi sự thay đổi và phê phán những hành vi sai trái, góp phần hướng tới một xã hội công bằng hơn.