Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Cảm nhận về hình ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua tác phẩm đã học

2 trả lời
Hỏi chi tiết
644
0
0
Vi
11/09/2019 18:15:32
Người phụ nữ Việt Nam ta từ xưa đến nay vốn dĩ chịu nhiều bất công.Là phận nhi nữ của ''truyền thống nho học'' , họ phải luôn gắn mình với những ''khuôn phép mẫu mực'', những đạo lý áp đặt trớ trêu mà lễ giáo phong kiến đã gây nên.Ở xã hội hiện đại ngày nay, những suy nghĩ ấy phần nào đã được đổi mới.Thế nhưng, thật xót xa khi ta ngoảnh đầu nhìn lại.Nhìn lại thân phận những người phụ nữ bị vùi dập trong xã hội xưa, thật sự khiến ta phải giật mình thảng thốt.Ta có thể thấy, nền văn học đương thời cũng đã rất quan tâm đến mảng đề tài này, đó chính là tiếng lòng, tiếng thương cho số phận người phụ nữ - ''phường nữ nhi tầm thường'' trong xã hội lúc bấy giờ. Chúng ta có thể thấu hiểu hơn phần nào về số phận và phẩm chất của họ qua các bài thơ như: ''Bánh trôi nước'',''Tự tình II'' của bà chúa thơ Nôm - Hồ Xuân Hương.Hay qua tiếng tự trào cười ra nước mắt của Trần Tế Xương trong tác phẩm ''Thương vợ''.Đó là những lời thơ hiện thực sâu sắc, đồng thời cũng mang những ý nghĩa nhân văn hết sức lớn lao.
Thân phận của những người phụ nữ luôn gắn với những bi kịch.''Nhất nam viết hữu , thập nữ viết vô'' - trong chế độ phong kiến xưa, người phụ nữ luôn luôn bị khinh rẻ và bị cho là ''vô dụng'' , không làm được gì.Thân phận của họ giống như một món hàng không hơn không kém.Họ không thể làm chủ được cuộc đời của mình,buộc phải ''nhắm mắt đưa chân''...
''Bảy nổi ba chìm với nước non''.
Thật bấp bênh. Là thân phụ nữ , họ phải chịu cảnh ''bảy nổi ba chìm'' , lênh đênh, nổi trôi vô định.Ấy chính là thân phận ''bèo dạt'' của họ thời bấy giờ.Cuộc đời họ như một cuộc đánh cược, sung sướng hay khổ đau, họ không thể tự quyết định.Tất cả đều tùy thuộc vào duyên trời, như câu ca dao: ''Thân em như hạt mưa rào.Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày''.Hạt mưa rào, ngắn ngủi và buông mình rơi tự do vào khoảng không trơ trọi...
Thời phong kiến cũng chính là nơi không dành cho sự chung thủy.Ở đó, trai ''năm thê bảy thiếp'' là lẽ thường tình.Ấy vậy nên tình yêu son sắt thủy chung của người phụ nữ sẽ không được xem trọng.Ở đó, người phụ nữ để đạt được tình yêu đã khó, để giữ chúng cho riêng mình xem ra lại càng khó hơn.Thân phận vốn dĩ như một món hàng rẻ mạt, người phụ nữ không có quyền mưu cầu hạnh phúc cá nhân.Vậy nên những đêm ''tự tình'' trong thanh vắng như Hồ Xuân Hương có lẽ không hề hiếm ở xã hội ngày ấy. Hạnh phúc đối với họ như một món quà xa xỉ không thể với tới, không thể chạm tới.''Muốn hạnh phúc'' có lẽ vẫn chưa đủ, họ ''khao khát'', họ ''thèm thuồng'', họ ''cầu xin'' sự hạnh phúc. Thế nhưng, có được không ?
''Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn''
Tất cả đã ''xế''.Mọi vật đã ''tà''.Đã qua rồi cái tuổi xuân của người phụ nữ.Trăng cũng đã đoạn cái thời khắc sung mãn nhất, tròn đầy nhất.Vậy tại sao, trăng lại ''khuyết chưa tròn'' ? Hỡi ôi, ''tròn'' sao được khi niềm khao khát hạnh phúc mãnh liệt kia chưa được trọn vẹn. ''Tròn'' sao được khi mảnh tâm hồn vẫn đang ''khuyết'' tình yêu thương ? Phận làm lẽ cho người khác, chỉ được vỏn vẹn một ''mảnh tình'' , ấy vậy lại còn phải ''san sẻ tí con con''. Còn lại bao nhiêu trong niềm chua chát ấy ? Nghĩ mà thương.Ngẫm mà xót !
Trong xã hội mục nát ấy, thân phận họ rẻ rúng, tình yêu thương họ cầu xin, trong gia đình họ lại như tay, tớ.Người phụ nữ hiện lên trong tác phẩm ''Thương vợ'' của Trần Tế Xương là một hình ảnh tiêu biểu của số phận mà họ phải chịu thời bấy giờ.Người phụ nữ ấy tần tảo, lam lũ, chông chênh nơi ''mom sông'' , vất vả, cần cù dẫu ''năm nắng mười mưa'' vẫn ''dám quản công'' không nề hà, oán trách.''Thân cò'' yếu đuối ấy làm tất cả chỉ để ''nuôi đủ năm con với một chồng''. Có quá sức không ? Có kham nổi không ? Những người phụ nữ không có quyền trả lời những câu hỏi này.Họ xem đó như là nỗi đắng cay mà phận làm nhi nữ phải gánh, phải ''đành phận''. Ôi, bạc bẽo...
Tất cả những nỗi tủi nhục, bẽ bàng, vất vả kia chính là hệ quả mà xã hội phong kiến gây nên cho họ.Họ chính là nạn nhân của xã hội thối nát kia, chính nó đã giết đi quyền được làm người một cách đúng nghĩa, quyền được sống và mưu cầu hạnh phúc của người phụ nữ.Càng thương thân phận của những người phụ nữ bao nhiêu, ta lại càng căm ghét cái xã hội vô nhân kia bấy nhiêu.
Thế nhưng trân trọng thay, qua lớp bùn tanh ấy, ta mới thấy được sự tinh khiết của những đóa sen thắm hương. Xã hội có thể vùi dập cuộc sống của họ nhưng muốn vùi dập được nhân phẩm của họ ư ? Không thể !
''Thân em vừa trắng lại vừa tròn'' , ''Trơ cái hồng nhan với nước non'' - phận ''hồng nhan'' ấy lận đận giữa dòng đời.Họ là phái đẹp, đẹp không chỉ về hình thức, họ còn đẹp ở cả tâm hồn.
''Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.''
Một lời khẳng định hết sức mạnh mẽ và chắn chắn.Trong xã hội, họ không bao giờ được thể hiện chính kiến của mình. Nhưng ở đây, ta thấy được sự vươn mình trỗi dậy như ''cỏ mọc trên đá''.Có lẽ chỉ khi nói về ''đức hạnh'' thì họ mới có thể vững vàng khẳng định như vậy. Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào thì họ vẫn hết mực ''giữ tấm lòng son'' của mình.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
Vi
11/09/2019 18:16:56
Hồ Xuân Hương sáng tác nhiều bài thơ nổi tiếng về đề tài phụ nữ. Thơ bà là tiếng nói đòi quyền sống tự do và thể hiện khát khao hạnh phúc. Trần Tế Xương cũng có một số bài thơ nói về những vất vả gian truân mà người phụ nữ phải gánh chịu trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ.
Mượn hình ảnh chiếc bánh trôi nước quen thuộc trong dân gian, Hổ Xuân Hương gửi gắm những suy ngẫm sâu sắc của mình về thân phận nhỏ bé và phụ thuộc của người phụ nữ:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.

Chiếc bánh trôi nước làm bằng bột nếp trắng tinh, mịn màng, tròn trịa và xinh xắn khiến người ta liên tưởng tới vẻ đẹp hổn nhiên, đầy đặn của những cô gái đương xuân. Bánh luộc trong nồi nước sôi, mấy lần chìm xuống nổi lên mới chín. Bột bánh trắng trong nổi rõ màu nâu đỏ của nhân làm bằng đường thẻ. Với đôi mắt và trái tim đa cảm, Hồ Xuân Hương đã nhận ra đằng sau những chi tiết rất thực ấy là cả một nỗi niềm thương thân trách phận của người phụ nữ. Tạo hoá sinh ra họ là để duy trì và phát triển sự sống của nhân loại, đồng thời làm đẹp cho đời. Vai trò của họ là vô cùng quan trọng, nhưng quan niệm thiên vị đến mức lệch lạc trong xã hội phong kiến đã cố tình phủ nhận điều đó. Nào là: Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô. Nào là: Nữ nhân ngoại tộc.
Rồi luật Tam tòng cột chặt người phụ nữ vào thân phận bị phụ thuộc vĩnh viễn: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Những quan niệm khắt khe, cổ hủ ấy đã tước đoạt điều quý giá nhất là được tự do sống đúng với con người mình và đáng sợ hơn là nó biến người phụ nữ thành cái bóng mờ nhạt trong suốt cuộc đời. Họ tồn tại chứ không phải là sống theo đúng nghĩa tích cực của từ đó. Chẳng khác gì những chiếc bánh trôi nước, rắn, nát, méo, tròn hoàn toàn do tay kẻ nặn.
Ở bài thơ Tự tình II, Hồ Xuân Hương đã bộc bạch tâm trạng bức xúc cao độ của bản thân, đồng thời cũng là tâm trạng chung của bao phụ nữ cùng cảnh ngộ trong xã hội phong kiến:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!

Nói đến người phụ nữ là nói đến cái đẹp, tình yêu thương và đức hi sinh. Họ cống hiến hết cho cuộc đời mà không đòi hỏi quyền lợi vật chất nào ngoài sự trân trọng, cảm thông và chia sẻ. Nhưng những cái đó hầu như không được gia đình và xã hội quan tâm vì cho rằng thiên chức của phụ nữ là phục tùng vô điều kiện. Hiểu rõ điều bất công đó nên Hồ Xuân Hương đã viết nên những câu thơ thấm đẫm nỗi xót xa, chua chát như trên. Hồng nhan là cách gọi những phụ nữ đẹp, rộng hơn là để chỉ chung giới nữ. Nhưng gọi là cái hồng nhan có nghĩa là đã hạ nó xuống ngang hàng với những vật vô tri vô giác khác. Nỗi hờn tủi, bẽ bàng chất chứa trong câu thơ: Trơ cái hồng nhan với nước non in đậm dấu ấn phong cách diễn tả độc đáo của Xuân Hương.
Tâm sự trĩu nặng nỗi buồn thân phận và duyên phận của nữ sĩ không biết ngỏ cùng ai nên càng cuộn xoáy, day dứt trong lòng giữa đêm khuya thanh vắng. Nhưng dù bị phụ phàng hay quên lãng thì nhân vật trữ tình trong bài thơ vẫn không tuyệt vọng, vẫn khao khát sống mạnh mẽ, vẫn ước ao đến cháy lòng hạnh phúc tròn đầy, vẫn mong muốn được san sẻ và bù đắp những tình cảm chân thành nhất giữa người với người.
Bài Thương vợ của nhà thơ trào phúng nổi tiếng Trần Tế xương có thể coi là chân dung tương đối hoàn chỉnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến:
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.

Ngày xưa, Nho giáo buộc phụ nữ phải có bổn phận thờ chồng, nuôi con. Thờ chồng đối với bà Tú bao hàm cả việc nuôi chồng, thế là bất công vì đúng ra, người đàn ông phải giữ vai trò trụ cột trong gia đình về mọi mặt.
Bà Tú vốn con nhà gia giáo, khá giả. Lúc còn ở với cha mẹ, bà không phải chịu cảnh vất vả nắng sương. Làm vợ ông Tú lận đận về đường khoa cử, lại không nghề không nghiệp nên bà đành chấp nhận cảnh sống long đong, khổ sở. Quanh năm lo tảo tần buôn bán nơi mom sông, bến chợ để Nuôi đủ năm con với một chồng. Mà nuôi ông chồng đặc biệt tài hoa như ông Tú thì không phải chỉ lo miếng cơm, manh áo bình thường mà còn phải chuẩn bị sẵn cho ông ít rượu ít trà, ít tiền bỏ túi để có lúc ông vui bạn vui bè, chuẩn bị cho ông một hai bộ cánh tươm tất để nhỡ đi đâu ông khỏi tủi… Như vậy là bà Tú phải lo rất nhiều, phải làm rất nhiều mà không dám kể lể, thở than: Một duyên hai nợ âu đành phận, Năm nắng mười mưa dám quản công. Bà âm thầm coi đó là định mệnh đã an bài. Suy nghĩ và tâm trạng của bà Tú cũng là suy nghĩ, tâm trạng chung của phụ nữ thời xưa.
Nhà thơ Trần Tế Xương từng tự nhận mình là ông chồng vô tích sự, để vợ phải lặn lội thân cò… chẳng khác chi những thân cò thân vạc đáng thương trong ca dao – dân ca, tượng trưng cho thân phận vất vả, cực nhọc của người phụ nữ. Bên cạnh nỗi khổ vật chất, bà Tú còn nỗi khổ tinh thần. Bà hết lòng vì chồng, vì con nhưng chồng con nào có biết cho chăng?! Thế nên mới có tiếng thở dài như một lời than não ruột: Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không!
Có lẽ ông Tú đã hoá thân vào vợ mình, để thấu hiểu và thông cảm với bà. Lấy chồng mà chẳng được nhờ vả, cậy dựa; lấy phải ông chồng hờ hững thì quả là có cũng như không mà thôi.
Ba bài thơ cùng một đề tài và cùng toát lên thân phận nhỏ bé, phụ thuộc rất đáng thương của người phự nữ trong xã hội phong kiến xưa kia. Nhà thơ Hồ Xuân Hương và nhà thơ Trần Tế Xương đã góp tiếng nói đáng kể vào tiếng nói chung bảo vệ quyền lợi chính đáng của một nửa nhân loại – những người gánh vác trọng trách duy trì sự sống trên trái đất này.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 11 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư