Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Tìm hiểu mối quan hệ của Việt Nam với ASEAN năm 2019?

Tìm hiểu mối quan hệ của Việt Nam với ASEAN năm 2019?     
EM CẦN GẤP MỌI NGƯỜI GIÚP EM Ạ!!!!
1 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
375
0
0
Đỗ Dũng
09/10/2019 20:10:40
Ngay sau khi tham gia ASEAN, với quyết tâm hoàn thành tốt nghĩa vụ một quốc gia thành viên, chúng ta đã chủ động, tích cực tham gia vào tất cả các hoạt động hợp tác từ chính trị-an ninh, kinh tế-thương mại, cho đến hợp tác chuyên ngành. Từ đó, ta đã nhanh chóng phát huy vai trò, vị trí của mình trong Hiệp hội.
Một trong những đóng góp đầu tiên của chúng ta trong ASEAN là nỗ lực thúc đẩy việc kết nạp các nước Lào, Mi-an-ma và Căm-pu-chia, hình thành một ASEAN-10, hoàn thành mục tiêu mà ASEAN đã đề ra từ lâu là xây dựng một khối ASEAN thống nhất, quy tụ tất cả 10 nước ở khu vực Đông Nam Á. Đây là một bước ngoặt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tiến trình phát triển của ASEAN. Nó mở ra một thời kỳ mới, khác hẳn về chất trong quan hệ giữa các nước trong khu vực. Sau mấy thập kỷ xung đột và đối đầu, rào cản ngăn cách giữa các nhóm nước đã được dỡ bỏ, quá trình hòa giải khu vực được hoàn thành. Các nước cùng nhau đoàn kết, gắn bó dưới một mái nhà chung, hợp tác xây dựng một khu vực Đông Nam Á hòa bình, ổn định và thịnh vượng.
Ba năm sau khi là thành viên, Việt Nam đã nhận đăng cai Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6 tại Hà Nội (12/1998). Lúc đó hoàn cảnh khu vực có bất lợi: ASEAN đang phải trải qua một giai đoạn cực kỳ khó khăn do tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính khu vực. Nhiều bạn bè cũng lo ngại khả năng tổ chức của ta. Tuy nhiên Việt Nam đã quyết tâm thực hiện tốt trách nhiệm thành viên của mình. Dù điều kiện vật chất, hạ tầng cơ sở của chúng ta khi đó còn khó khăn, kinh nghiệm tham gia ASEAN chưa nhiều, trình độ và năng lực cán bộ còn hạn chế, chúng ta đã nỗ lực hoàn thành xuất sắc, tổ chức tốt và thành công hội nghị. Chương trình Hành động Hà Nội (Hanoi Plan of Action – HPA) - một đóng góp quan trọng của Việt nam - đã đề ra nhiều biện pháp cụ thể, định hướng cho sự phát triển và hợp tác của Hiệp hội trong 6 năm sau đó để thực hiện Tầm nhìn 2020. Hội nghị cũng đã đạt được quyết định sẽ kết nạp Căm-pu-chia trở thành thành viên thứ 10 của Hiệp hội vào tháng 4 năm sau, hoàn thành ý tưởng ASEAN -10. Nỗ lực và thành công của chúng ta trong việc tổ chức HNCC ASEAN 6 được bạn bè đánh giá rất cao.
Tiếp đó, từ tháng 7/2000 đến tháng 7/2001 ta đảm nhiệm vai trò Chủ tịch Ủy ban Thường trực ASEAN (ASC). Trong vai trò đó, ta đã tổ chức thành công một loạt các Hội nghị cấp bộ trưởng quan trọng của ASEAN tại Hà Nội. Đặc biệt, Tuyên bố Hà Nội về Thu hẹp khoảng cách phát triển được thông qua tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 34 (AMM-34) tại Hà Nội năm 2001 đã mang đậm dấu ấn Việt Nam, vừa đáp ứng nhu cầu của ASEAN muốn tăng cường liên kết nội khối, vừa phục vụ thiết thực cho nhu cầu vươn lên, phát triển cho kịp các nước thành viên khác của 4 nước thành viên mới Căm-pu-chia, Lào, Mi-an-ma và Việt Nam. Nó đã trở thành tài liệu định hướng quan trọng cho hoạt động hợp tác của ASEAN trong nhiều năm tới.
Với tư cách nước sáng lập ARF, ta đã chủ động tham gia và có nhiều đóng góp vào tiến trình ARF, góp phần xây dựng ARF trở thành một diễn đàn đối thoại về an ninh có vị thế ở khu vực, đồng thời ta đã kiên trì đấu tranh giữ vững tính chất và các nguyên tắc đã thoả thuận của Diễn đàn ARF, và duy trì vai trò chủ đạo của ASEAN trong diễn đàn này.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng có nhiều nỗ lực nhằm bảo vệ và duy trì những nguyên tắc cơ bản đã trở thành bản sắc riêng của ASEAN nhất là nguyên tắc "đồng thuận", "không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau".
Trong lĩnh vực quan hệ đối ngoại của ASEAN, Việt Nam đã có nhiều đóng góp tích cực cho việc thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa ASEAN với các nước Đối thoại, góp phần nâng cao tiếng nói và vị thế của ASEAN trên thế giới. Chúng ta đã tham gia tổ chức nhiều hoạt động tăng cường quan hệ với các nước đối thoại, đảm nhiệm tốt vai trò là nước điều phối quan hệ đối thoại giữa ASEAN với các cường quốc như Nhật Bản, Nga, Mỹ và hiện nay là Ôxtrâylia. Ngoài ra, chúng ta cũng tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác ASEAN+3 (với 3 nước Đông Bắc Á là Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc) và trong tương lai là hợp tác Đông Á, tiến tới việc hình thành một khuôn khổ hợp tác mới trên quy mô toàn khu vực Đông Á.
Trong lĩnh vực hợp tác kinh tế-thương mại, Việt nam đã nghiêm túc thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế khu vực của mình và luôn nỗ lực đảm bảo tiến độ thực hiện các cam kết của mình với ASEAN trong khuôn khổ các chương trình hợp tác kinh tế và có nhiều đóng góp để làm phong phú thêm các nội dung hợp tác kinh tế ASEAN v.v.
II/ Những kết quả chủ yếu của 10 năm chúng ta tham gia ASEAN:
- ASEAN là một tổ chức khu vực có uy tín, có mối quan hệ quốc tế rộng rãi, là tổ chức duy nhất trên thế giới có mối quan hệ đối thoại thành cơ chế với nhiều nước lớn và tổ chức quốc tế quan trọng của thế giới, trong đó có các thành viên thường trực Hội đồng Bảo an LHQ. Gia nhập ASEAN đã hỗ trợ đắc lực cho ta trong việc thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa, chủ động hội nhập khu vực và quốc tế. Với vai trò là một tổ chức khu vực được đánh giá là khá thành công, có vai trò và tiếng nói ngày càng quan trọng trên trường quốc tế, việc tham gia ASEAN đã giúp ta nâng cao vị thế và tiếng nói của Việt Nam trên thế giới, đặc biệt là tăng thêm trọng lượng cho ta trong quan hệ với các nước lớn cũng như tại các diễn đàn quốc tế quan trọng. Là thành viên ASEAN, ta đã trực tiếp tham gia và đóng vai trò quan trọng trong việc xác định phương hướng phát triển và các quyết sách lớn của ASEAN về các vấn đề liên quan đến hợp tác và phát triển ở khu vực. Ta cũng có điều kiện tăng cường phối hợp lập trường với các nước ASEAN trong việc xử lý các vấn đề khu vực và quốc tế, nhất là đối với các vấn đề phức tạp, có liên quan đến lợi ích quốc gia của ta.
- Bên cạnh đó, ta cũng có điều kiện xây dựng và phát triển mối quan hệ láng giềng tốt đẹp với các nước trong khu vực, góp phần thúc đẩy xu thế hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở Đông Nam Á, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của ta.
- Việc tham gia ASEAN cũng giúp chúng ta tranh thủ được những lợi ích thiết thực từ những hoạt động hợp tác kinh tế-thương mại và chuyên ngành của ASEAN, góp phần mở rộng các quan hệ của ta với các nước khu vực trên nhiều lĩnh vực; hỗ trợ đắc lực cho những nỗ lực hội nhập khu vực và quốc tế của ta. Có thể coi ASEAN như một sân chơi nhỏ, giúp chúng ta làm quen dần với các luật chơi chung của quốc tế trước khi tham gia vào các tiến trình hội nhập ở quy mô rộng hơn như APEC, WTO... Trở thành thành viên ASEAN, chúng ta cũng có điều kiện thúc đẩy và mở rộng quan hệ kinh tế, tiếp cận được thông tin và các tiến bộ khoa học-công nghệ hiện đại; học tập và chia sẻ kinh nghiệm phát triển và quản lý với các quốc gia thành viên ASEAN vốn được coi là những nền kinh tế trẻ đầy năng động trong khu vực, nhiều nước đã đứng vào hàng ngũ các nước công nghiệp mới (như Singapore,Malaysia), góp phần đáng kể vào nỗ lực cải cách và phát triển kinh tế của ta lúc đó.
- Quá trình tham gia hợp tác ASEAN đã giúp ta đúc rút thực tiễn hội nhập và kinh nghiệm hợp tác đa phương, góp phần tạo bước chuyển biến tích cực trong quá trình xây dựng chính sách hội nhập khu vực và quốc tế. Tham gia ASEAN giúp chúng ta nâng cao trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ các cấp các ngành trong các hoạt động quốc tế và đa phương; thúc đẩy việc điều chỉnh dần các thủ tục hành chính, phong cách làm việc theo hướng phù hợp tiêu chuẩn khu vực và quốc tế.
Về cụ thể trong lĩnh vực kinh tế, thương mại: Mặc dù xuất phát điểm của chúng ta thấp hơn các nước ASEAN cũ rất nhiều, nhưng sự tham gia của ta vào các chương trình liên kết kinh tế như AFTA, AIA, AICO, IAI, việc triển khai từng bước chương trình hợp tác Mekông, nhất là thực hiện sáng kiến quan trọng của ta về phát triển kinh tế các vùng nghèo liên quốc gia dọc hành lang Đông - Tây (WEC) đã tạo thế chủ động hội nhập của nước ta vào nền kinh tế khu vực, phù hợp với các ưu tiên phát triển của ta. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu giữa Việt Nam và ASEAN đã tăng đáng kể tới 20% ngay năm đầu tiên thực hiện CEPT (1996) và liên tục tăng năm sau cao hơn năm trước (trừ năm 2001) với tốc độ trung bình 15,8% mỗi năm trong giai đoạn 1996- 2003. So với năm đầu tiên tham gia hội nhập kinh tế ASEAN, thực hiện CEPT/AFTA, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN năm 2004 đã tăng gấp 1,8 lần.
- Về đầu tư, tỷ trọng vốn đầu tư từ các nước ASEAN trong tổng số vốn đầu tư nước ngoài (FDI) vào Việt Nam đạt mức khá, trung bình 18,5% giai đoạn 1995-2003. Mặc dù trải qua giai đoạn khủng hoảng, tỷ trọng vốn này đã có lúc giảm xuống 15,8% vào năm 2000 nhưng những năm gần đây vốn đầu tư từ ASEAN đã dần được phục hồi với tỷ trọng 19,7% năm 2003.
Trong việc tham gia Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (CEPT/AFTA), chúng ta đã thực hiện nghiêm túc các cam kết của mình. Cho đến nay, các nước ASEAN-6 đã cơ bản hoàn thành việc giảm thuế xuống mức 0-5%. Các nước thành viên mới đang bước vào giai đoạn cuối cùng thực hiện cam kết của mình. Ngoài Cămpuchia thực hiện cắt giảm sau, các nước Việt Nam, Lào và Mianma đều đã thực hiện giảm thuế từ 62% đến 84% số dòng thuế.
Với Việt Nam, việc chuyển các sản phẩm thuộc danh mục loại trừ tạm thời (TEL) sang danh mục cắt giảm thuế (IL) đã hoàn thành từ năm 2003, ngoại trừ 14 dòng thuế linh kiện ô tô, xe máy tạm hoãn thực hiện cắt giảm thuế. Năm 2005 này cũng là năm cuối cùng Việt Nam thực hiện cắt giảm thuế các sản phẩm thuộc danh mục IL để thực hiện mục tiêu về cơ bản áp dụng thuế suất 0-5% đối với hàng hoá nhập khẩu từ các nước ASEAN. Cho đến tháng 3/2005, Danh mục cắt giảm thuế (IL) của Việt Nam đạt 10.277 dòng thuế, tương đương với 96,15% tổng số dòng thuế trong khuôn khổ CEPT/AFTA.
Song song với chương trình cắt giảm thuế quan, Việt Nam còn phối hợp với các nước ASEAN triển khai chương trình công tác nhằm xác định, phân loại và tiến tới dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan.
Bên cạnh các lợi ích kinh tế cụ thể nêu trên, việc tham gia tích cực vào các hoạt động hợp tác kinh tế ASEAN còn góp phần ổn định môi trường thương mại trong nước, tránh các biến động lớn, ảnh hưởng tiêu cực đến cán cân thương mại quốc gia, góp phần làm lành mạnh môi trường kinh doanh trong nước, gây sức ép buộc các doanh nghiệp nội địa nâng cao năng lực cạnh tranh, góp phần củng cố , nâng cao chất lượng hoạt động thương mại, cải tiến quy trình, thủ tục kinh doanh theo hướng đơn giản và thuận tiện hơn.
Trong vài năm gần đây, xu thế mở rộng hợp tác toàn diện với các đối tác thương mại lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, cũng mở ra những cơ hội to lớn cho Việt Nam trong phát triển thị trường xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển kinh tế toàn diện, vững chắc.
III. Những thách thức lớn mà chúng ta đã vượt qua:
- Trước hết, phải thừa nhận rằng vào thời điểm 1995, sự khác biệt giữa Việt Nam với các nước thành viên cũ trong ASEAN còn khá lớn, nhất là về trình độ phát triển kinh tế. Bản chất của ASEAN lại là một Hiệp hội hoạt động theo cơ chế lỏng lẻo, mang tính chất "thống nhất trong đa dạng". Tham gia ASEAN là một quá trình phức tạp buộc chúng ta phải thật linh hoạt, mềm dẻo để làm sao vừa đảm bảo các vấn đề mang tính nguyên tắc, giữ vững lợi ích quốc gia của ta song cũng vẫn duy trì được sự đoàn kết, thống nhất và phát triển của ASEAN.
- Sự khác nhau về cơ cấu kinh tế, nhất là khoảng cách không nhỏ về trình độ phát triển giữa Việt Nam và các nước ASEAN khác làm cho một số hình thức, mức độ hợp tác trong ASEAN chưa phù hợp với trình độ phát triển của Việt Nam lúc đó, ví dụ như trong quá trình tham gia và thực hiện AFTA, AIA, AICO..., đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực nhiều. Hơn nữa, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp ta còn yếu; hệ thống luật của ta chưa hoàn chỉnh, chưa đổi mới theo luật pháp và thông lệ quốc tế và khu vực; các thủ tục còn rườm rà, bất cập với các hoạt động hợp tác ASEAN.
- Hoạt động hợp tác trong ASEAN rất đa dạng và phức tạp, đòi hỏi phải có sự tham gia và phối hợp của nhiều Bộ, nhiều ngành về cả nhân lực và tài chính, kể cả năng lực đề xuất sáng kiến và thúc đẩy dự án. Vào năm 1995, năng lực và trình độ của cán bộ ta, nhất là kỹ năng hoạt động đa phương và tiếng Anh còn hạn chế là một trở ngại đáng kể trong quá trình ta tham gia sâu rộng vào các hoạt động hợp tác trong ASEAN mà chúng ta đã phải rất nỗ lực để vượt qua.
Tóm lại, khi chúng ta gia nhập ASEAN tháng 7/1995 có nhiều thuận lợi nhưng cũng lắm thách thức, khó khăn. Nhưng vì lợi ích đất nước, chúng ta đã rất quyết tâm, khai thác thuận lợi, nỗ lực khắc phục khó khăn và thách thức, đạt nhiều kết quả tốt đẹp. Cho đến nay nhìn lại, có thể thấy rằng quyết định tham gia ASEAN của Đảng và nhà nước ta là hết sức đúng đắn, tạo đà cho những thắng lợi to lớn khác của chúng ta trên mặt trận đối ngoại cho đến ngày nay. Nhìn tổng thể, ta đã tham gia nhanh, chủ động và có hiệu quả vào các hoạt động của Hiệp hội; góp phần triển khai đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, chính sách đa dạng hoá, đa phương hoá, nhất là chính sách với các nước láng giềng, khu vực; từ đó nâng cao đáng kể uy tín và vị thế của Việt Nam ở Đông Nam Á và trên thế giới./.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
Gửi câu hỏi
×