LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Nhà thơ Cù Huy Cận đã khắc họa hình ảnh con người Việt Nam dân tộc Việt Nam: "Sống vững chãi bốn ngàn năm Sừng sững lưng đeo Gươm tay mềm mại bút hoa". Em tự hào về những truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam

 Nhà thơ Cù Huy Cận đã khắc họa hình ảnh con người Việt Nam dân tộc Việt Nam: "Sống vững chãi bốn ngàn năm Sừng sững lưng đeo Gươm tay mềm mại bút hoa"
 Em tự hào về những truyền thống em tự hào về những truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam
 cố giúp mình nha
2 trả lời
Hỏi chi tiết
4.651
3
0
Nguyễn Công Tỉnh
07/11/2019 21:38:37
Không hiểu vì sao mỗi lần nghĩ đến đất nước và con người Việt Nam, chúng ta lại nghe vang vọng trong tâm trí mình những câu thơ của Huy Cận.
Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững
Lưng đeo gương tay mềm mại bút hoa
Trong và thực, sáng hai bờ suy tương
Sống hiên ngang mà nhân ái, chan hoà.
Qua bao phong ba lịch sử, dân tộc ta đã thể hiện một sức sống mãnh liệt “Lưng đeo gương tay mềm mại bút hoa. Bên cạnh ý chí độc lập dân tộc, bao giờ cũng sẵn sàng giáng sấm sét vào đầu kẻ thù, chúng ta còn có một tấm lòng yêu tấm lòng yêu này tiếp thêm sức mạnh cho ý chí ấy và là khởi nguồn cho chúng ta tạo nên một nền văn học tuyệt vời. Văn học dân tộc là một thứ máu của tổ quốc. Dòng máu văn học ấy chảy trong lòng dân tộc ta suốt chiều dài lịch sử, qua biết bao thác ghềnh và thấm vào tâm hồn chúng ta hôm nay với một sức sống rạo rực mãnh liệt. Yêu biết bao nền văn học ấy, nền văn học mà nội dung cũng như hình thức đều chứng tỏ sức sống, sự vươn lên của con người Việt Nam.
Sức sống ấy bắt đầu bằng tình yêu đất nước, yêu thiên nhiên vồ cùng tha thiết và trong sáng. Mỗi mảnh đất quê hương chúng ta đều mang hơi thở cuộc sống cùa những ngày cha ông gian khổ khẩn hoang vỡ đất. Con người Việt Nam đổ mồ hôi, xương máu, gắn chặt tâm hồn mình với mảnh đất thiêng liêng ấy. Thiên nhiên đất nước giàu đẹp nhưng cũng lắm thử thách, hăm doạ rập rình theo mỗi bước đi lên của con người Việt Nam. Mặc dù vậy, tình ta yêu đời, tình là yêu cuộc sống vẫn là âm hưởng chủ đạo ngày ngày vang lên trong cuộc sống gian khổ mấy cũng vui được, cái vui vừa ngời chói, vừa trong sáng lạ lùng:
Qua văn học, sức sống ấy không những chỉ thể hiện trong nội dung tác phẩm mà còn rung lên mãnh liệt, sảng khoái ở ngay hình thức thể hiện.
Dân tộc ta, văn học ta trước mọi mưu mô đồng hoá của kẻ thù vẫn giữ cho mình một sức thái riêng biệt, hết sức độc đáo. Chống lại dã tâm đồng hoá bằng chữ Hán của bọn phong kiến phương Bắc, cha ông ta đã sáng tạo, xây dựng một nền văn học chữ Nôm phát triển khá rực rỡ, kết tinh bằng một Truyện Kiều bất hủ. Những vần thơ lục bát của dân tộc Việt Nam vượt qua mọi phong ba của lịch sử, vượt qua mọi sự tấn công của các thể thơ Trung Quốc vẫn giữ được uyển chuyển đáng yêu của con người Việi Nam. Mỗi chúng ta đều lớn lên với tiếng ru của các làn điệu dân ca, những câu ca dao của mẹ. Qua một chăng đường lịch sử gian khổ mà huy hoàng, nền văn học của dân tộc với bản sắc dân tộc đậm đà là một trong những minh chứng hùng hồn khẳng định sức sống mãnh liệt của con người Việt Nam. Chúng ta tự hào có ông cha anh hùng, đồng thời cũng tự hào đã kế tục xứng đáng truyền thống anh hùng đó. Sức sống mãnh liệt của dân tộc chảy theo dòng lịch sử đã tìm gặp được sự cộng hưởng vĩ đại trong ngày hôm nay khi chúng ta có Đảng. Từ trong đêm đen nô lệ. Đảng ta đã ra đời chói ngời ánh sáng chân lí với một sức mạnh mới mẻ. Tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin đã làm nên câp số nhân kì diệu cho sức sống mãnh liệt của dân tộc. Dân tộc đã chuyển mình theo Đảng tạo nên một sức sống mới, một sức mạnh mới. Tiêu biểu cho sức sống của dân tộc ưên con đường tìm đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là Bác Hồ kính yêu. Bác là người kế thừa sức sống mãnh liệt của cha ông, nâng nó lên tầm cao thời đại. Trong đêm nô lệ của dân tộc, Bác đi ra đi, nhân danh đau thương của dân tộc, nhân danh tình yêu, nhân danh công lí quyết tìm đường cứu nước.
... Gian khổ thì nhiều, nhưng sức sống và lòng lạc quan của ta là vô tận. Vượt qua những chặng đường hành quân “vắt với sương, ngô bung, xôi nhạt, nước lưng bương”, cứ khi đêm đến, vào một nhà dân, hạ ba lô bên bếp lửa thì mỗi ngày như được kết thúc bằng một niềm vui. Sức sống của con người Việt Nam kháng chiến thật là kì diệu.
Những năm tháng đánh Mĩ cứu nước ngời chói trong lòng ta những chiến công và niềm tự hào vô bờ bến. Bót đồn thù đè nặng bóng tối quê hương ta, bà mẹ miền Nam căm thù quân giặc, thề “còn cái lai quần cũng đánh” (Người mẹ cầm súng - Nguyễn Thi). Chủ nghĩa anh hùng cách mạng đi vào máu thịt, vào đời sống hàng ngày của nhân dân miền Nam quyết đánh và quyết thắng giặc Mĩ xâm lược. Cách sống của chị út Tịch cũng là phương thức sông của nhân dân ta, nó biểu hiện một sức sống tuyệt vời, vượt lên mọi bạo lực của quân thù. Triệu tấn bom không dập tắt được tiếng hát của chúng ta trên đường Trường Sơn, tình người Việt Nam sáng ngời trong lửa đạn
Cảm ơn Đảng đã dẫn dắt chúng ta chiến đâu và xây dựng. Sức sống của dân tộc trong lòng thời đại hôm nay mãnh liệt hơn bao giờ hết. Sức sống ấy bắt nguồn từ lòng yếu Tổ quốc, từ ý thức độc lập tự chủ vô địch. Cha ông chúng ta xây dựng nên một nước Việt Nam tràn trề sức sống, tràn trề sinh lực, chúng ta và con cháu chúng ta sẽ đưa nó đến chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Ngời lên, cuộn dâng trong ta hôm nay sức sống con người Việt Nam qua bốn ngàn năm dạn dày với lịch sử. Chúng ta sẽ mang sức sống ấy cùng Đảng đi xa, bay xa hơn nữa. Một ngày mai rất đỗi huy hoàng đang chờ đón chúng ta.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
3
0
Nguyễn's Trung's
07/11/2019 23:08:34
Trong một sáng tác của mình, nhà thơ Huy Cận viết:
Sống vững chãi bốn nghìn năm sừng sững
Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa
Trong và thật sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa
Với bốn câu thơ trên, Huy Cận đã khái quát được một cách khá đủ đầy về nội dung của văn học Việt Nam nói chung và văn học trung đại nói riêng.
Có thể nói lịch sử văn học Việt Nam luôn gắn liền với lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước suốt bốn ngàn năm qua. Hình ảnh Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa là hình ảnh thật đẹp về các tác gíả văn học. Từ Trần Quôc Tuấn đến Phạm Ngũ Lão, đến Nguyễn Trãi và cả sau này là Nguyễn Đình Chiểu... mỗi nghệ sĩ vừa là một người anh hùng trận mạc, luôn kiên định ý chí chiến đấu chống giặc ngoại xâm vừa là một người nghệ sĩ rất mực tài hoa. Các sáng tác của họ phần lớn thể hiện hai giá trị nội dung lớn: giá trị hiện thực (trong và thật giữa hai bờ suy tưởng) và giá trị nhân đạo (sống hiên ngang mà nhân ái chan hoà).
Thời phong kiến, đất nước Việt Nam thường xuyên phải đối chọi với những đạo quân xâm lược phương Bắc. Hầu hết các thi sĩ cũng chính là những người anh hùng trong công cuộc đấu tranh giữ nước. Mỗi sáng tác văn chương của họ đều phản ánh rất rõ không khí thời đại mình. Có thể hình dung rõ điều này qua các sáng tác văn học thời đại Lí Trần. Từ Quốc tộ (Đỗ Pháp Thuận) đến Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn) Tụng giá hoàn kinh sư (Trần Quang Khải), Thuật hoài (Phạm Ngũ Lão) đến Bạch Đằng giang phú (Trương Hán Siêu), Qui hứng (Nguyễn Trung Ngạn)... tất cả đều thể hiện rõ nét tấm lòng yêu nước của con người thời đại này. Lòng yêu nước có khi là niềm tự hào đần tộc, tự hào về những chiên công oanh liệt, tự hào về con người thời đại mình... nhưng cũng có khi được biểu hiện trong nỗi nhớ nhà, nhớ quê của người đang đi sứ...
Xa quê, nhớ quê là tình cảm thường thấy ở mỗi người. Với Nguyễn Trung Ngạn, nỗi nhớ quê trở về thật tự nhiên và tự cất thành những câu thơ giản dị:
Lão tang diệp lạc tàm phương tận,
Tào đạo hoa hương giải chính phì.
(Dâu già lá rụng tằm vừa chín
Lúa sớm nở hoa thơm, cua đang lúc béo.)
Tiêu điểm của nỗi.nhớ trong Nguyễn Trung Ngạn không phải là những gì quá lớn lao, hùng vĩ mà đơn giản chỉ là những hình ảnh dân dã, quen thuộc của quê hương như cây dâu già, nong tằm vừa chín, lúa trổ bông sớm thoảng mùi hương, cua đang lúc béo. Cuộc sống sung sướng đất Giang Nam không làm tác giả quên đi hình ảnh quê hương mà ngược lại nó càng làm nhà thơ nhớ thương nơi quê nhà nghèo khó. Hình ảnh thơ quen thuộc lại làm xúc động lòng người bởi nó gắn bó máu thịt với mỗi cuộc đời, bởi nó được nói lên một cách chân thực, tự nhiên.
Nếu ỏ hai câu đầu lòng yêu nước của Nguyễn Trung Ngạn được thể hiện thầm kín qua nỗi nhớ quê hương thì đến haL.câu cuối tác giả trực tiếp nói lên tâm trạng của mình:
Kiến thuyết tại gia bần diệc hảo,
Giang Nam tuy lạc bất như qui.
(Nghe nói ở nhà dẫu nghèo vẫn tốt,
Đất Giang Nam tuy vui cũng chẳng bằng về nhà.)
Bằng kiểu câu khẳng định tuy... bất... và biện pháp nghệ thuật đốì lập bần diệc hảo, Nguyễn Trung Ngạn đã thể hiện niềm mong mỏi được trở về quê hương đất nước mình. Từ đây, chúng ta có thể cảm nhận được một cách gián tiếp niềm tự hào của tác giả. Với Nguyễn Trung Ngạn, sống sung sướng nơi đất khách không bằng được sống nơi quê nhà
Gắn liền với hiện thực về lòng yêu nước là tinh thần nhân văn, là tư tưởng nhân nghĩa lớn lao. Trong Bạch Đàng giang phú, Trương Hán Siêu đã khẳng định, đề cao con người, đạo lí chính nghĩa, qua nỗi niềm cảm khái trước cảnh, sông Bạch Đằng trong hiện tại. Tác giả phân tích khá thấu đáo về ba yếu tố làm nên sự thắng lợi của một cuộc chiến (thiên thời, địa lợi, nhân hoà) và đi đến kết luận: Trời cho ta thế hiểm, nhưng điều quyết định là ta có nhân tài giữ cuộc điện an:
Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng,
Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.
Thông qua lời vẳn, Trương Hán Siêu muốn khẳng định vai trò, vị trí của con người, gợi lại hình anh Trần Hưng Đạo với câu nói đã lưu danh sử sách: “Kim niển, tặc nhàn" (Năm nay giặc đến dễ dánh). Theo binh pháp cổ, muốn thắng trong chiến trận, cần ba yêu tố: thiên thời, địa lợi, nhân hoà. Bài phú có nói đến ba yếu tố: thiên thời (trời cũng chiều lòng người), địa lợi (đất hiểm), nhân hoà (nhân tài). Tuy nhiên, thắng giặc không cốt ở đất hiểm mà chủ yêu là ở đức lớn, ở sức mạnh của con người:
Giặc tan muôn thuở thanh bình.
Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.
Đến Nguyễn Trãi, tinh thần nhân văn được thể hiện thành tư tưởng nhân nghĩa lớn lao, xuyên suôt Đại cáo bình Ngô. Tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện ngay trong những câu văn đầu tiên:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa là yên dân, an dân, là thương dân, yêu dân, coi dân như con. Nhân nghĩa phải gắn liền với chống xâm lược, dó chính là điểm mới mẻ, tiến bộ trong quan niệm nhân nghĩa này. Dân là xuất phát điểm, là động lực và cũng là mục đích để đội quân điếu phạt tiễu trừ bạo tàn. Chính điều đó làm nên sự sâu sắc trong tư tưởng nhân nghĩa của Lê Lợi, Nguyễn Trãi.
Trên lập trường nhân bản, bài cáo đã vạch trần tội ác tày trời của giặc:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi...
Bằng nhãn quan nhân nghĩa, Nguyễn Trãi thấu suốt mọi tội ác của quân Minh. Hiện thực về sự dã man, bạo tàn được phơi bày không che đậy. Không thấu hiểu nỗi đau đớn muôn dân phải chịu đựng, chắc chắn Nguyễn Trãi không thể viết được những câu văn đanh thép mà đau đớn như thế. Và cũng trên lập trường nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã tuyên cáo về tội ác trời biển không thể dung thứ của giặc bằng những câu văn hình ảnh, thấm đẫm nỗi xót xa, căm phẫn:
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Càng căm phẫn quân bạo tàn, ngạo ngược, đội quân điếu phạt càng ra sức chiến đấu trừng trị bọn chúng:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Đấu lại với bạo tàn lẽ tất nhiên phải dùng bạo lực. Nhưng với nghĩa quân Lam Sơn, bạo lực phải đi kèm với nhân nghĩa. Và không chỉ là nhân nghĩa thông thường mà còn là đại nghĩa, chí nhân - nghĩa là nhân nghĩa ở mức tuyệt đỉnh. Nhân nghĩa trở thành dộng lực để đạo quân Lam Sơn xoay chuyển tình thế từ yếu sang mạnh và chiến thắng đến với đội quân nhân nghĩa là tất yếu. Nhân nghĩa trở thành đường lối, trở thành kế sách đánh giặc tấn công.
Tấm lòng nhân nghĩa đó không chỉ dành cho muôn dân nước nhà. Nó còn được rộng mở, biểu hiện bằng sự khoan dung đối với quân giặc. Khi quân Minh bại trận, tướng giặc như hổ đói vẫy đuôi, quân ta đã mở đường hiếu sinh tha chết cho chúng, thậm chí còn cấp cho thuyền ngựa để chúng dẫn tàn quân về nước:
Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc;
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run
Có thể nói tư tưởng nhân nghĩa là tư tưởng chủ đạo xuyên suốt bài cáo, làm nên vẻ đẹp nhân văn cao cả của một tác phẩm văn chương, thể hiện tinh thần nhân đạo trong tầm tư của nhà chiến lược đại tài, của người anh hùng suốt đời vì dân, vì nưởc.
Có lẽ khi viết những dòng thơ trên kia, Huý Cận đã xuất phát từ các sáng tác trên đây để nhận định một cách chính xác và tài hoa về nội dung thơ văn Việt Nam nói chung và thơ văn thời kì trung đại nói riêng. Cảm nhận đó cũng chính là nền tảng cơ sở để nhà thơ và những thế hệ đi sau sẽ nối tiếp những nội dung tiêu biểu của văn học đất nước mình.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư