Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, quê ở làng Đại Hoàng, phủ Lí Nhận, tỉnh Hà Tĩnh Nam. Ông là nhà văn xuất sắc nhất của trào lưu hiện thực phê phấn. Ngồi bút của Năm Cao có khả năng nặng phần tích tầm lí nhận vật. Ông thường đi sâu vào các ngóc ngách trong tâm hồn để rồi phát hiện quá trình tâm lí, từ đó khái quất thành những điển hình hình những vẫn có tính độc đáo. Trong các tác phẩm chính của ông có văn bản Lão Hạc được trích từ tác phẩm cùng tên kể về cuộc đời nhiều bất hạnh, nhiều nước mắt và đấu khổ của nhận vật.
Lão Hạc là một người nông dân nghèo, vợ mất sớm, sống cảnh gà trống nuôi con. Tên gọi lão Hạc gợi cho người đọc sự già nữa, ốm yếu. Cũng như bao người nông dân khác, lão Hạc nghèo. Cái nghèo đeo bấm dài dẳng cả cuộc đời khiến lão mất con, bán cậu Vàng, kết thức cuộc sống của mình bằng cái chết đau đớn.
Lão Hạc có một mảnh vườn ba sào. Tuy vậy tiền hoa lợi từ mảnh vườn không đáng là bao. Lão đã dành dụm mãi mới được một số tiền là để cho cậu con trai. Cậu con trai của lão không có tiền cưới vợ, phẫn chí bỏ đi đồn điền cao su, lão bất lực trước hạnh phúc của con rồi lại bất lực khi còn ra đi. Ngày con trai bỏ đi, lão khóc hết nước mắt. Cầm ba đồng bậc trên tay mà người cha già ấy ngỡ như vừa bán con. Cậu con trai đi rồi, lão sống thui thôi, cô độc, không người săn sốc khi trở trời trái gió. Lão phải làm thuê cuốc mướn sống quá ngày. Bên cạnh lão chỉ còn cậu Vàng- kỉ vật cậu còn trai để lại, là niềm an ủi của lão trong những tháng ngày cô độc.
Nhưng cái nghèo lại cướp mất niềm an ủi ấy. Lão ốm hai tháng mười tấm ngày, bão lại phá sạch hoa màu trong vườn. Sức yếu không ai thuê lão, lão đành bán cậu Vàng đi. Thân lão lão còn không nuôi nổi chứ nói gì đến cậu Vàng. Sau khi bán cậu Vàng, lão đâu khổ, dằn vặt. Lão 'cười như mếu', 'đôi mắt ầng ậng nước'. Nam Cao đã khắc học khuôn mặt già nua, khắc khổ của lão Hạc bằng chi tiết ' Mặt lão đột nhiễn có rúm lại... ép cho nước mắt chảy ra'. Ta thấy, cả cuộc đời đau khổ của lão Hạc hiện lên trên nét mặt ấy. Lão khóc nhưng không còn nước mắt để khóc nữa, lão đã có quá nhiều đau khổ: mất vợ, mất con, mất cậu Vàng, nghèo đói, bệnh tật... Có ý kiến cho rằng, miếu tả nỗi đau đớn, dằn vặt khi bán cậu Vàng của lão Hạc đã thể hiện rõ ngồi bút bậc thầy của nhà văn Nam Cao trong việc khắc học tầm lí nhận vật. Và nếu không có cái tâm thì không có được cái nhìn thấu suốt ấy...
Như vậy, số phận của lão Hạc là số phận bị kịch của người nông dân trước cách mạng tháng tám. Cái nghèo đã đề nặng lên thể xác khiến cho lão sứ cùng lực kiệt; nghèo khổ cướp mất con trai, cướp mất cậu Vàng; nghèo khổ đẩy lão tới cái chết thảm khốc chưa từng thấy. Cái chết ấy đã kết thúc cảnh đời tủi cực và số phận bị đát. Không chỉ là nỗi đau, cái chết ấy là lời tố cáo mạnh mẽ, sâu sắc cái xã hội tàn bạo bất nhân đã gây nên những cảnh đời thế thảm như lão Hạc.