Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Cảm nhận của em về bài thơ "Nhàn"

Cảm nhận của em về bài thơ nhàn

3 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
437
1
1
Fureta Ari
03/01/2020 21:27:19
Trong văn học trung đại, có nhiều bài thơ hay và ý nghĩa của các thi sĩ đương thời. Trong đó bài Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong những bài thơ tiêu biểu , thể hiện vẻ đẹp tâm hồn nhân cách của tác giả, tôn cao triết lí sống.

Bài thơ Nhàn được sáng tác trong hoàn cảnh tác giả về quê ở ẩn. Chữ “ nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm không hề tâm thường như trong câu “nhàn cư vi bất thiện” mà là thái động sống, một triết lí sống của tác giả được bộc lộ rõ ràng. Bài thơ mang bốn triết lí sâu sắc gói gọn trong chữ “nhàn” được phân chia bố cục chặt chẽ. Mở đầu bài thơ tác giả viết:

Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dàu ai vui thú nào

Hai câu mở tạo ấn tượng đầu tiên với điệp ngữ “một” được lặp lại ba lần trong một dòng thơ mang tính chất liệt kê các sự vật quen thuộc: “mai”, “cuốc”, “cần câu” những vật dụng rất đỗi quen thuộc mang bóng dáng nhà nông chân chất vừa mang bóng dáng của một tao nhân mặc khách. Chỉ cần vậy thôi, ta đã cảm nhận được đây là một cuộc sống thư thái an nhàn của nhân vật trữ tình. Kết hợp với điệp ngữ “một” là từ láy “thơ thẩn” miêu tả được tráng thái của tác giả. Với dáng người ung dung, thoải mái, trạng thái tâm hồn thanh nhàn an nhiên không vướng bận chút bụi trần. Câu thơ như một lời thách thức của tác giả đối với người đời, mặc dù ai vui thú nào, ta đây vẫn vui thú an nhàn, vui cuộc sống thôn quê. Từ lời thách thức ấy toát lên sự ung dung trong phong thái, thanh thản trong tâm hồn, vui thu điền viên.

Đến với hai câu thực tiếp theo đã khái quát chân dung nhân vật trữ tình và triết lí “nhàn” của thi nhân:
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao

Ở đây ta thấy rõ được sự đối lập giữa các sự vật trong hai câu thơ. “nơi vắng vẻ” là chốn thôn quê thanh bình, an nhàn vô âu vô lo, ở đó tâm hồn con người hòa nhập với thiên nhiên, còn “chốn lao xao” là nơi quan trường với những đua tranh ghen ghét của danh lợi, ồn áo phiền não. Phải chăng tác giả “dại” nên tìm nơi thôn quê, còn người đời “khôn” tìm đến chốn quan trường, nhưng thật chất ngược lại, xét trong câu thơ, “dại” có nghĩa là khôn, “khôn” có nghĩa là dại. Lối nói ngược mang ý nghĩa mỉa mai: người khôn mà chọn chốn lao xao đầy rẫy những tham lam, dục vọng , luôn phải suy nghĩ đắn đo, và như thế liệu có sung sướng? Phép đối hai câu thơ thực mang nghĩ mỉa mai chế giễu lũ người kia chỉ biết lao đầu vào tham vọng, vào vòng danh lợi. còn tác giả, ông phủ nhận vòng danh lợi ấy bằng cách thể hiện quan điểm, khí chất thanh cao trong sạch. “Nhàn” ở đây chính là cuộc sống thanh cao, tránh xa vòng danh lợi.

Không những tác giả chọn cuộc sống thanh cao, tránh xa tham vọng, tác giả còn hết mình hòa nhập với thiên nhiên, Đến với hai câu luận đã gợi mở cho người đọc về cuộc sống bình dị , giản đơn của nhân vật trữ tình:
Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao

Ai cũng biết măng, tre, trúc, giá là đồ ăn dân dã từ thiên nhiên rất dễ tìm thấy, gắn liền với cuộc sống của nhà nghèo nơi thôn dã đậm đà vị quê. Những thức ăn ấy trở nên quen thuộc mỗi ngày trong đời sống sinh hoạt, thu ăn măng trúc trên rừng, mùa đông về ăn giá. Đặc biệt câu thơ: “xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” đã phác họa hình ảnh quen thuộc ở làng quê, lối sinh hoạt dân dã. Khi trở về với thiên nhiên , với làng xóm , Nguyễn Bỉnh Khiêm thực sự hòa mình với thôn quê thuần hậu. Cuộc sống thanh đạm , mang lại thú vui an nhàn, thảnh thơi mùa nào thức đấy, đó là một cuộc sống được nhiều người ngưỡng mộ mà chẳng mấy ai có được. chính cảnh sinh hoạt đời thường ấy đã thể hiện sự đồng điệu nhịp bước của thiên nhiên và của con người. Hẳn phải sống hết mình, sống hòa hợp với thiên nhiên mới có sự đồng điều kì diệu như vậy.

Từ những thứ sinh hoạt đời thường ở những câu thơ trên thì đến với hai câu kết, tác giả đúc kết tinh thần, triết lí sống cao đẹp:
Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Trong câu thơ, tác giả có sử dụng điển tích “cội cây” ý muốn nói rằng phú quý công danh là thứ phù phiếm ,chỉ là áng phù vân trôi nổi có rồi lại mất nhử một giấc mơ mà thôi. Đó là một thái độ rất đáng trọng bởi Nguyễn Bỉnh Khiêm sống trong thời đại mà chế độ phong kiến bắt đầu khủng hoảng, nền tảng đạo đức nho giáo bị phá vỡ, rạn nứt, đó là thời đại mà con người lấy tiền làm thước đo cho mọi giá trị khác. Vậy, “nhàn” ở đây là coi thường vinh hoa phú quý. Và ta hiểu rằng “nhàn” ở đây là một triết lí sống chứ không phải quan niệm nhân sinh, không phải là cứu cánh mà chỉ là một phương thức tư duy. Bản chất chữ “nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải nhân tâm mà là nhân thân. Nhân mà vẫn phải âu lo việc nước. Nhàn là tìm kiếm sự thanh thản trong tâm hồn chứ không phải là lười nhác, suy cho cùng cũng là giữ gìn danh tiếng của mình, giữ tròn thanh giá của mình trong thời loạn, là lạc đạo vọng bần giữ những phần tử gian xảo tranh đua danh lợi. Nhàn là không để dục vọng xấu xa làm mờ ám lương tâm, làm vẩn đục tâm hồn, không tham dự vào vòng danh lợi, còn lòng ái quốc sẽ không bao giờ nguội lạnh.

Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa triết lí và trữ tình thể hiện vẻ đẹp tâm hồn nhân cách ẩn sĩ Nguyễn bỉnh Khiêm, là một tâm hồn yêu thiên nhiên, hòa mình cùng thiên nhiên , phủ nhận danh lợi. Bài thơ mang một triết lí sống đẹp đẽ đáng nể, làm gương cho bao thế hệ mai sau.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
1
Doãn
03/01/2020 21:29:30

Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1941 và mất năm 1585. Ông đã sống gần trọn một thế kỉ đầy biến động của chế độ phong kiến Việt Nam. Trong bối cảnh ấy, Nguyễn Bỉnh Khiêm thông qua những vần thơ của mình không chỉ vạch trần những thế lực đen tối làm đảo lộn cuộc sống nhân dân mà ông còn bảo vệ trung thành cho những giá trị tốt đẹp. Trong số các sáng tác của ông thì Nhàn là bài thơ Nôm nổi tiếng nhất. Nội dung bài thơ nêu lên quan niệm sống của một bậc ẩn sĩ thanh cao.

Đã rất nhiều lần, Nguyễn Bỉnh Khiêm đứng trên lập trường đạo đức nho giáo để bộc lộ quan niệm sống của mình. Với bài thơ Nhàn này cũng vậy. Ông đã lánh đời thoát tục và đây là lúc ông tìm về với thiên nhiên cây cỏ để giữ cho mình sự trong sạch. Cuộc sống của ông bây giờ đối lập với bọn người tầm thường chỉ biết đua tranh lợi lộc

Mở đầu bài thơ cuộc sống nhàn tản của tác giả hiện lên với biết bao điều thú vị:

Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào

Đọc hai câu thơ trên ta cảm tưởng như hiện lên trong đầu mình là ông lão Nguyễn Bỉnh Khiêm dân dã trong một trang phục nhà ông đang ngồi câu cá, bên cạnh là mai với cuốc. Dường như ông đang nghỉ ngơi thư thái sau khi làm vườn xong. Nhìn vì có vẻ cuộc sống bình dị như vậy nhưng thực chất lại rất cao quý. Ông tìm về cuộc sống ngư, tiều, canh, mục như một cách đối lập dứt khoát với những thú vui khác. Cuộc sống này tuy đậm chất dân quê nhưng lại vô cùng thanh cao. Cái dáng vẻ thơ thẩn mang lại vẻ ung dung bình thản của nhà thơ trong cuộc sống nhàn tản thật sự. Những vật dụng lao động bình dị như mai, cuốc, cần câu xuất hiện nhằm tô điểm cho cái thơ thẩn khác đời của nhà thơ. Nó thể hiện một cuộc sống không vướng bận lo toan. Có thể cảm nhận được đằng sau câu thơ này những suy nghĩ của nhà thơ không tách rời quan điểm thân dân. Đối với ông, cuộc sống của nhân dân chứa đựng những vẻ đẹp cao cả, một triết lí nhân sinh vững bền.

Từ đó, nhà thơ khẳng định một thái độ sống khác người đầy bản lĩnh:

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người đến chốn lao xao

Trong hai câu thơ này tác giả đã dùng phép đối tạo thành hai đối cực giữa một bên là nhà thơ xưng ta và một bên là người. Người bảo ta dại khi tìm nơi vắng vẻ còn người khôn nên ở chốn lao xao. Thế nhưng đối với ta dại như vậy mới là khôn. Nơi vắng vẻ là nơi thanh tịnh và an nhàn, ta được vui thú với những điều bình dị mà chẳng phải lo toan việc chi. Còn cái khôn của người là cái khôn dại. Người ở chốn lao xao phải tranh giành đấu đá để tìm cho mình đường sống chứ nào được thưởng thức cái sự thanh tịnh và yên bình của cuộc đời. Cách nói ngược của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có ngụ ý như vậy nhằm khẳng định một lần nữa thái độ sống của ông. Chỉ có tìm về với thiên nhiên thì con người ta mới được trải qua:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

Không đắm chìm trong vinh hoa, Nguyễn Bỉnh Khiêm chọn cách hưởng thụ sự hào phóng của thiên nhiên. Thiên nhiên tươi đẹp ban cho con người nhiều nguồn thực phẩm phong phú giúp con người chẳng bao giờ lo đói. Cuộc sống ấy, mùa thu thì có măng, mùa đông thì có giá, mùa xuân tắm hồ sen, mùa hạ tắm ao. Đây đồng thời là biểu tượng gắn kết với phẩm chất thanh cao của người quân tử. Sang đến hai câu tiếp theo nhà thơ đã phát triển trọn vẹn quan niệm về chữ nhàn:

Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Nguyễn Bỉnh Khiêm đã mượn điển tích để nói lên thái độ sống dứt khoát đoạn tuyệt với công danh phú quý. Với Nguyễn Bỉnh Khiêm phú quý chỉ là thứ chiêm bao, có rồi lại tan biến đi ngay. Đó không phải là cái vĩnh hằng, là cái mà con người mong muốn đạt được cuối cùng. Sống ở trong một giấc mơ đẹp thì con người lại sợ hãi nếu phải tỉnh dậy quá sớm. Chi bằng cứ sống một cuộc đời nhàn, không lo toan có phải hạnh phúc hơn không. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chọn cách sống ấy, lui về quê hưởng thanh tịnh, an nhàn.

Qua bài thơ Nhàn người đọc cảm nhận được sâu sắc tình cảm và trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Qua đây chúng ta cũng thấy được triết lý sống an nhàn của tác giả.

1
0
Quách Trinh
03/01/2020 21:33:32
Nền văn học trung đại đồ sộ đã mang đến cho chúng ta nhiều áng thơ hay, mang giá trị lớn lao. Trong số đó, không thể không nhắc đến bài thơ "Nhàn" của trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ đề cao triết lí sống thanh cao của những vị danh nhơ đương thời:
 
"Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chỗ lao xao
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu đến gốc cây, ta sẽ nhắp
Nhìn xem phú quí, tựa chiêm bao"
Câu thơ đầu mở ra những hình ảnh quen thuộc: "mai, cuốc, cần câu" đều là những công cụ gắn liền với thôn dã, làm hiện lên nhân vật trữ tình với tư thế của một lão nông biết đến ruộng vườn, nhất định không phải tư thế đạo mạo của một bậc đại nho. Câu thơ ngắt nhịp thoải mái, sử dụng lặp lại từ "một" khiến lời thơ vang lên như một tiếng sấm rạch ròi, chứng tỏ nhà thơ đón lấy cuộc sống hết sức vui sướng, niềm vui vì được làm điều mình thích. "Thơ thẩn" là trạng thái ung dung, nhàn nhã, thoải mái, tác giả cảm thấy tự tin vì sự lựa chọn của mình. "Ai" là đại từ phiếm chỉ, khẳng định người khác có thú vui riêng và tác giả cũng vậy. Hai câu đầu khẳng định nhàn không phải là lánh đời mà là sự lựa chọn cho mình có một không gian sống mà mình thấy thích thú, tự do tự tại
 
Hai câu đầu là lối sống tự do tự tại, hòa mình vào cuộc sống chung thì hai câu sau là sự lí giải sâu sắc về sự lựa chọn ấy:
 
"Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao"
"Ta" là nhà thơ, "người" là ai, chắc chắn không phải là thiên hạ mà là những kẻ ham công danh lợi lộc. Hai câu thơ có thể hiểu nơi vắng vẻ không phải là nơi lánh đời mà là nơi bản thân mình cảm thấy thích thú, sống thoải mái khác hẳn với chốn quan trường. Chốn thiên nhiên nơi đây là nơi thích hợp nhất để Nguyễn Bỉnh Khiêm tránh xa thói đời ô tạp, để giữ cho tâm hồn mình luôn trong sáng và thanh sạch hơn. Bẳng cách nói ngược "dại" mà thực chất là "khôn", còn "khôn" nhưng thực chất lại là "dại", Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sáng suốt lựa chọn lối sống đối lập với bao người, thoái khỏi chốn lợi danh, ganh đua để sống an nhiên và tự tại. Cách nói nhún nhường, khiêm tốn của bậc đại nho là lối ứng xửa minh triết của một bậc chân nho:
 
"Dụng chi tắc hành
Xa chi tắc tàng"
(Dùng thì sẽ ắt nên công,
Nếu mà từ khước, hư không chẳng còn)
Nhàn là trở về với cuộc sống tự nhiên, thoát khỏi vòng ganh đua lợi lộc, thói tục, không bị vướng vào tiền tài, địa vị và giữ cho tâm hồn mình luôn khoáng đạt bởi:
 
"Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao"
Mùa nào thì gắn với sự vật ấy, đều có sẵn trong tự nhiên không phải vất vả kiếm tìm. Đây là hình ảnh của cuộc sống tự cung tự cấp nhưng vẫn hết sức đủ đầy và vui vẻ. Phải chăng tác giả đã đan xen vào đó triết lí vô vi của đạo giáo : Không làm gì can thiệp vào quy luật của tự nhiên mà để chúng tự phát triển, đề nghị con người có lối sống thuần theo tự nhiên hay sao? Thức ăn có sẵn trong tự nhiên tuy đạm bạc nhưng không phải là món ăn khoái khẩu, nhưng lại là cái nhàn thanh cao chứ không phải cái nhàn tục của hạng người phú quý, biếng nhác. Vì vậy câu thơ nghe nhẹ bẫng mà thanh thản, lâng lâng một niềm vui, cái nhẹ tênh của một cuộc sống không cần gắng gượng.
 
Tuy nhiên đến với cuộc sống nhàn phần nào cũng bởi đời ô trọc mà thôi. Có vẻ nhà thơ nhàn mà chưa thực sự nhàn, vẫn nhắc đến chuyện công danh:
 
"Rượu đến cội cây ta vẫn uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao"
Hai câu thơ sử dụng điển Thuần Phong Vũ, thể hiện một cái nhìn bi quan về công danh khi thấy chúng chỉ tựa như một giấc chiêm bao, là áng phù vân, không có giá trị đích thực, không có ý nghĩa. Bởi vậy từ đó thi gia muốn nói con người coi thường phú quý, đứng cao hơn phú quý và không làm nô lệ cho nó. Với cái nhìn như thế, tác giả đã hoàn toàn quay lưng vào công danh, lấy nhàn làm chân lí sống. Vần thơ của cụ Nguyễn có sức cảnh tình với con người cần phải sáng suốt trước lợi lộc trước mắt.
 
Tóm lại, "Nhàn" đề cao một nhân cách sống, một lối sống thanh cao, tránh xa lợi lộc tầm thường, hướng đến lối sống thiện tâm. Tuy nhiên, đặt trong hoàn cảnh thời đại mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đang sống, đó không phải là một giải pháp tốt để có thể cải tạo và thay đổi xã hội.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k
Gửi câu hỏi
×