LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Cảm nhận về bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy

Cảm nhận về bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy.
 

4 trả lời
Hỏi chi tiết
234
0
0
光藤本
16/01/2020 15:25:37

Chỉ là một giờ đọc thêm trong chương trình Ngữ văn 12, nhưng cứ đến bài thơ “Đò Lèn” của Nguyễn Duy, cả cô và trò chúng tôi đều nghẹn ngào và rưng rưng nước mắt...

Nguyễn Duy sáng tác bài thơ Đò Lèn năm 1983, khi ông trở về quê ngoại thăm bà sau bao năm xa cách nhưng bà đã không còn. Xuyên suốt bài thơ là hình ảnh Bà ngoại tảo tần nuôi cháu lớn khôn.

Mở đầu bài thơ, người bà hiện lên trong quá khứ với những trò nghịch dại, hồn nhiên, vô tư và vô tâm của người cháu

 " Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá

níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật

và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần…”

Chi tiết " níu váy bà" hòa cùng các chi tiết về trò nghịch ngợm thuở nhỏ: câu cá, bắt chim, trộm nhãn...gợi hình ảnh một cậu cháu trai với các trò chơi táo tợn, tinh nghịch, nhưng với bà lại nhõng nhẽo, nũng nịu...và vì thế người bà hiện lên thật hiền từ, nhân hậu…

Mải mê với các trò chơi, thú vui người cháu vô tâm đâu biết bà vất vả, cực nhọc thế nào để nuôi mình khôn lớn:
                   " Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
                    bà mò cua xúc tép ở Đồng Quan
                    bà đi gánh chè xanh Ba Trại
                    Quán cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn"
.

Cuộc sống cực khổ nghèo đói, bà dù già yếu vẫn sẵn lòng bươn chải các nghề để nuôi cháu. Khi như cánh cò lặn lội " mò cua xúc tép", khi trĩu vai gánh hàng bán buôn đêm hôm gió rét. Chỉ với từ láy " thập thững" thần tình, nhà thơ đã gợi lên xúc động hình ảnh người bà chân yếu tay mềm, bước cao bước thấp trên con đường truân chuyên nặng gánh cháu con. Viết đến đây, ta lại nhớ đến nao lòng câu thơ chứa chan nước mắt của Hoàng Cầm:

       "Bên kia sông Đuống

Mẹ già ta lại quẩy gánh hàng rong

Bước cao bước thấp trên bờ tre hun húy

Có con cò trắng bay vùn vụt

Lướt qua dòng sông Đuống về đâu...”

Điều đặc sắc của Nguyễn Duy trong bài thơ chính là thủ pháp đối lập. Đối lập giữa thế giới tâm linh đền thờ miếu mạo với tiên, phật, thánh thần và thế giới thực với người bà tảo tần yêu thương cháu vô điều kiện:

  " Tôi trong suốt giữa hai bờ hư- thực
  giữa bà tôi và tiên, phật, thánh thần(...)
bom Mĩ giội nhà bà tôi bay mất

đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
thánh với phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn

Vậy là, những thánh, thần, tiên, phật của cháu trên cõi đời thực chính là bà. Bà là tình yêu, là chỗ dựa, là nguồn sống của cháu. Ấy vậy mà, nhỏ thì vô tư đến vô tâm, còn lớn lên đi lính, lại vì cách trở xa xôi mà vô tình. Khổ cuối nghẹn lại như một tiếng nấc nghẹn ngào rồi vỡ òa trong thức tỉnh:

    " Tôi đi lính lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi
khi tôi biết thương bà thì đã muộn
 bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi
"

Điều thấm thía của người cháu là: vũ trụ là vĩnh hằng, dòng dông quê vẫn chảy, trôi, lở, bồi, còn cuộc đời con người là hữu hạn. Khi còn bà thì không biết trân trọng, yêu thương, thấu hiểu, đến khi bà chỉ còn là nấm mộ thì thương xót bao nhiêu cũng đã muộn màng. Triết lý giản đơn mà sâu sắc khiến mỗi chúng ta ai cũng phải thấm thía giật mình...

Nhan đề là Đò Lèn, mà cả bài không hề nhắc đến con đò...phải chăng, Đò Lèn vừa là địa danh, vừa là hình tượng nghệ thuật biểu tượng cho người bà tảo tần khuya sớm, cho quê hương, cội nguồn, cho những giá trị tinh thần sâu nặng của mỗi người... Và rồi, đành rằng "nước mắt chảy xuôi" nhưng hãy biết trân trọng những người thân yêu của chúng ta ngay trong cuộc đời này, bởi ai mà biết được, thời gian trôi nhanh, đời người ngắn ngủi, đừng để một ngày kia không còn kịp nữa ... lẽ chăng là thông điệp mà Nguyễn Duy gửi gắm.

Giờ học đã qua, mà trong tôi vẫn mãi niềm nhớ thương về "một người mẹ có tên là bà Ngoại" của chính mình, người bà đã khuất bóng cách nay hơn 1 năm...!

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
光藤本
16/01/2020 15:26:32

Cuộc sống có những điều được gọi là nỗi nhớ, cứ xa xôi vô hình; có những hình ảnh được gọi là hoài niệm mãi miên man, dằng dặc; và có những tình cảm được gọi là yêu thương luôn ấm nồng sâu sắc mà thường những điều ấy đi xa rồi người ta mới biết cách gọi tên chúng. Ta gọi chúng như là hoài niệm, là nỗi nhớ, là yêu thương …

Cuộc đời người ngắn ngủi như chiếc lá, thoáng chốc thôi cũng đủ  để mầm non chuyển sắc vàng. Người ta lớn lên, bon chen nhau mà sống để rồi biết bao lần lại tìm về  tuổi thơ trong những nỗi nhớ xa xôi như thế. Với Nguyễn Duy đó lại là cả một thế giới của “ Đò Lèn “ – nơi lắng kết những giá trị vĩnh hằng – bài thơ mà cái tên thôi đã gợi lên giữa lòng người nhiều suy nghĩ. Những người đã biết sẽ thấy quen thuộc nhưng những người không biết lại dễ phân vân: cái gì là “ Đò Lèn “? Hai tiếng ấy vô tình trở thành một khái niệm khó hình dung trong khi thực chất nó lại vô cùng giản dị. Nó không phải là con đò, là dòng sông, bến nước hay cái gì đó chợt nảy ra khi lần đầu nghe đến. Đò Lèn là tên một miền đất như bao miền đất khác, nơi đã tạo nên tuổi thơ, hình thành hoài niệm trong bao lớp người xứ Thanh Hóa :

                                Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá

                                níu váy bà đi chợ Bình Lâm

                                bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật

                                và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần

Tuổi thơ được tác giả gợi lên với hình ảnh của bà, với những trò chơi thuở nhỏ. Ở đó có cậu nhóc nào ham chơi mải mê câu cá, có cô bé nào nũng nịu: “níu váy bà” ra chợ mua quà. Cái cống Na và chợ Bình Lâm hẳn đã là cả một thiên đường của nhà thơ. Ông viết nó giản dị và chân thật như vừa đem từ cuộc sống vào chứ không chỉ từ một nỗi nhớ thôi. Nào là đi bắt chim sẻ, rồi đi ăn trộm nhãn của chùa, …, được lang thang trên đồng ruộng, trong những ngôi chùa, khu vườn rộn ràng tiếng chim kêu. Không gian mở ra rộng lớn và mênh mông thỏa mãn tính hiếu động, đam mê khám phá của tuổi nhỏ, đưa chúng hòa nhập vào thiên nhiên, đất trời. Được chơi đùa, được nghịch ngợm thoải mái mới thấy hết niềm thích thú vô tận. Đó thật sự là tuổi thơ đúng nghĩa, khác hẳn với không gian nhỏ bé bao quanh bởi 4 bức tường chật hẹp bây giờ. Ta có thể hình dung ra trước mắt là hình ảnh một cậu bé tinh nghịch, lấm lem nhưng mắt sáng ngời. Không có quần áo đẹp, không có búp bê, siêu nhân, những tuổi thơ như thế hôm nay chỉ còn phảng phất trong nỗi nhớ người trưởng thành, trong ánh mắt lạ lẫm háo hức của trẻ con khi xem phim, đọc truyện ngày trước - cái thời của ba mẹ, của ông bà mình. Đoạn thơ như một cuốn phim quay chậm miên man, dằng dặc trôi đi:

-----Để tham khảo nội dung đầy đủ của tài liệu, các em vui lòng tải về máy hoặc xem trực tuyến-----

Đất nước mình có biết bao người bà như thế! Bà là hiện thân cho phụ nữ Việt Nam hiền hậu, tảo tần hôm sớm. Những ngày đất nước chiến tranh, bà thay cha mẹ nuôi nấng con cháu, giữ cho cháu trọn vẹn một tuổi thơ. Đâu đâu ta cũng nghe nhắc về bà như một hình ảnh thiêng liêng nhất. Người bà đi vào trái tim mỗi người như một lẽ tự nhiên, là miền ký ức vĩnh hằng : 

Tiếng gà trưa

Mang bao nhiêu hạnh phúc

Đêm cháu về nằm mơ

Giấc ngủ hồng sắc trứng.

Bà, tuổi thơ và những hình ảnh thân thuộc bình dị trong cuộc sống tạo nên giá trị cao đẹp nhất. Đi tìm đâu cái xa xôi khi mà hạnh phúc luôn song hành trong cuộc đời mỗi người. Nó là tình yêu thương vô điều kiện, là những tháng ngày vui chơi thỏa thích. Chúng như mảng màu rực rỡ chiếu sáng tâm hồn, hướng con người về chỗ cái đẹp, cái thiện căn: “Nhân chi sơ tính bổn thiện”.

Cùng với bà, quê hương Đò Lèn hiện lên sống động giữa tuổi thơ chan hòa. Nó hiện diện trong cái nghịch ngợm thiếu thời, trong từng giấc mơ trẻ thơ, là nơi con người vẫy vùng, ngụp lặn. Mảnh đất khi thanh bình, lúc đau đớn oằn mình vì đạn bom nhưng lúc nào cũng phảng phất hương huệ thơm ngần, cái thứ hương vị đã trở thành đặc trưng tồn tại giữa tiềm thức. Đò Lèn của cống Na, chùa Trần, con sông hai bờ bồi lở, cái tên mộc mạc mà chân tình thiết tha. Đò Lèn – nơi đó có bà, có cháu, có tất cả hoài niệm yêu thương tồn tại vĩnh hằng cùng nỗi nhớ !

1
0
Bạch Phàm
16/01/2020 15:32:58
Bài làm:

   Tuổi thơ và quê hương luôn là những kỉ niệm cháy bỏng trong nỗi nhớ của nhà thơ Nguyễn Duy. Nỗi nhớ ấy ngày đêm da diết, vấn vương từng bước đi trong đường đời của nhà thơ người lính Nguyễn Duy. Thời thơ ấu, sớm mồ côi mẹ, Nguyễn Duy được bà ngoại hiền từ, nhân hậu nuôi nấng, thương yêu. Trong tâm hồn Nguyễn Duy, bà ngoại là hình ảnh gần gũi, thân thiết đến vô cùng. Đã có bao bài thơ Nguyễn Duy sáng tác khi đi xa người bà kính yêu đã trở thành những bài thơ đẹp nhất của hồn quê hương sâu lắng và mặn mà nỗi nhớ thương.

 Có những bài thơ được Nguyễn Duy sáng tác để bộc lộ nỗi nhớ thương và biết ơn đối với người mẹ nơi quê xa, nhưng ở đó lại lâp lánh vẻ đẹp của hình ảnh người bà cao quý, tảo tần. Đối với Nguyễn Duy, bà là mẹ, là người đã cho cháu mình lòng yêu thương và cả sự hi sinh vô bờ bến. Bài thơ Đò Lèn đã trở thành một trong những bài thơ ngập tràn tình yêu thương đằm thắm như thế.

   Có thể nói: Đò Lèn là một bài thơ hay, giản dị và dễ hiểu. Một bài thơ được khơi nguồn từ tình yêu quê hương và lòng biết ơn sâu sắc với người bà nặng công nuôi nấng, vỗ về thương yêu như bài Đò Lèn, thực sự đã đem đến cho người đọc một tình cảm nhân bản sâu sắc. Đò Lèn với bao câu thơ xúc động đó đã gợi cho người đọc nhiều xúc cảm về những kỉ niệm tuổi thơ của Nguyễn Duy bên người bà thân thiết, giữa quê hương êm đềm một thời quá khứ.

   Vì thế, những cái tên địa danh thuộc huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, quê hương của Nguyễn Duy đã được nhà thơ nhắc đến thật nhiều như bao tình trìu mến dành cho mỗi một nơi: nào là cống Na, chợ Bình Lâm, chùa Trần, đền Cây Thị, đền Sòng, Đồng Quan, Ba Trại… Tất cả hiện lên để gắn với kỉ niệm ấu thơ day dứt lòng người. Và tất cả đã lùi vào quá khứ, nhưng đó lại là một quá khứ đẹp đến vô cùng. Cái "thuở nhỏ của "tôi" được Nguyễn Duy nhớ kỹ đến từng cử chỉ của con trẻ nghịch ngợm: đi câu cá ở cống Na, níu váy bà vì ngơ ngác giữa chợ Bình Lâm: sợ lạc mất người bà thân thiết hay cái gì cũng lạ lẫm đối với chú bé sớm thiếu thốn tình thương vỗ về? Rồi cùng bạn nhỏ "tôi" leo lên "bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật". Rồi cả cái ưò "ăn trộm nhãn chùa Trần" cũng được "cái tôi" Nguyễn Duy nhớ đến trong kí ức long lanh giọt nước mắt ngậm ngùi.

   Rồi "đền Cây Thị", "đền Sòng" với phảng phất "mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm" cũng trở thành kỉ niệm sâu nặng ân tình trong trái tim yêu thương của người con đi xa quê lâu lắm chưa trở về. Thế mà, những bước "chân đất đi đêm xem lễ", "điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng" và cả sắc màu của đời sống tâm linh lại bỗng trở thành rõ nét, rõ hình trong nỗi nhớ của Nguyễn Duy. Nét và hình ấy làm xao xuyến tất cả những ai đã đi qua thời thơ bé đáng yêu, bây giờ nhớ lại chợt thấy lòng se thắt tiếc nhớ.

   Nào đâu chỉ có tiếc nhớ mà thôi, vì còn có cả lời xót xa, ân hận cho một sự dại khờ. Bởi vì:

    Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế

    bà mò cua xúc tép ở Đồng Quan

    bà đi gánh chè xanh Ba Trại

    quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn.

   Người bà của "tôi" vất vả, nhọc nhằn như thế đó. Bước chân "thập thững" qua suốt những nơi ở quê "tôi" nơi Hà Trung, rồi đến cả những nơi thuộc giáp ranh Ninh Bình cũng có bước "bà đi". Hình tượng người bà vì thế đã có sức ám ảnh, cuốn hút nhà thơ và cả những ai từng có một người bà, người mẹ, người chị lam lũ suốt bốn mùa như thế. Bà của "tôi" là Tiên, là Phật, là Thánh, Thần. Dù "tôi" có ngây thơ sống giữa hai bờ hư thực, dù "cái năm đói, củ dong riềng luộc sượng" thì "bà tôi" vẫn cứ mãi là hình ảnh thánh thiện đến trong trẻo ở trong "tôi". "Cái năm đói" trong quá khứ có ý nghĩa gì đâu! Vì với tôi, đứa cháu bé bỏng hồi nào của bà, nay dù có lớn khôn thì hình ảnh trong veo ấy vẫn còn đó quyện lẫn mùi "thơm huệ trắng, hương trầm". Bước chân vững vàng hôm nay của Nguyễn Duy qua mọi nẻo đường cuộc sống luôn chập chờn êm đềm quá khứ thần tiên về "bà tôi".

   Rồi nhọc nhằn đâu đã hết đối vđi "bà" của "tôi". Chiến tranh tàn khốc cơ cực càng nhiều không kể xiết:

    Bom Mĩ giội, nhà bà tôi bay mất

    đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền

    thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết

    bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn.

   Bà của "tôi" vẫn sừng sững một ngoan cường giữa cuộc đời trần trụi vẫn tảo tần, vẫn chịu đựng tất cả để tồn tại, để thách thức mọi khổ đau. "ga Lèn " quê hương yêu dấu vẫn đậm bóng liêu xiêu, vẫn in "bước cao thấp" của "bà tôi". Bà vẫn chờ đợi tin tức đứa cháu yêu thương của bà. Cháu sẽ về với bà. Bà ơi, dù nhà, đền Sòng, chùa chiền và cả Thánh, Phật có bay đi hết, nhưng vẫn còn đây một bà Tiên đức độ giữa cuộc đời của cháu phải không? Bà Tiên ấy đã tiếp thêm sức mạnh đến vô tận cho cuộc đời một Nguyễn Duy luôn vươn tới mãi. Dù đó là một Nguyễn Duy:

    Khi tôi biết thương bà tôi đã muộn

    Bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi

   Bài thơ Đò Lèn kết thúc bằng nỗi nhớ, sự ân hận muộn màng của cháu là "tôi" dành cho "bà". Nhưng tất cả lại là những câu thơ chan chứa yêu thương và sự ấm áp nhất. Bởi ai đã hiểu hết sự hi sinh của những người bà, người mẹ như Nguyễn Duy thì người đó chính là người trưởng thành nhất và người đó luôn có trái tim nhân ái, nồng ấm nhất giữa trần gian phàm tục này.

0
0
Bạch Phàm
16/01/2020 15:37:45
Bài làm:

Trong phong trào thơ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ cứu nước, Nguyễn Duy xác lập được một lối đi riêng : không ngang tàng, "bụi bặm" theo kiểu Phạm Tiến Duật, không gân guốc như Nguyễn Đức Mậu hay nghiêm trang như Nguyễn Khoa Điềm, mà nghiêng về quan sát, phân tích đời sống rồi bằng trải nghiêm cá nhân rút ra những triết lí bất ngờ và sâu sắc. Hơi ấm ố rơm, Tre Việt Nam,... đều cùng mạch suy tư khởi nguồn từ những điều bé nhỏ. Đọc Nguyễn Duy thường bắt gặp những xúc cảm đầm ấm, hồn hậu đã lắng kết trong ta thành kí ức cội nguồn, thành tâm thức văn hoá, như mùi hương tuổi thơ, dẫu phảng phất mơ hồ mà không thể nào quên được. Đò Lèn, được viết sau ngày đất nước đã im tiếng súng, con người trở lại quỹ đạo của đời sống hoà bình, nhưng ở đây vẫn nguyên vẹn là một Nguyễn Duy đắm sâu triết lí mà thanh thoát nhẹ nhõm trong hơi thơ dân dã tự nhiên, một cái tôi nghệ sĩ có khả năng nối kết từ hổi ức riêng tư đến lịch sử dân tộc.

 

Bài thơ triển khai kết cấu theo dòng chảy của hoài niệm tuổi thơ, ngỡ ngọt ngào mà hoá ra xa xót, ngậm ngùi:

- Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá

- Thuỏ nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị

rồi giãi bày:

Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế

rồi suy tưởng:

Tôi trong suốt giữa hai bờ hư - thực

rồi kể lể:

- Bom Mĩ giội, nhà bà tôi bay mất

- Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại.

Đại từ "tôi" bé nhó, cá nhân, có vẻ âm thầm nữa, không phải cái thế kiêu bạc của người lính chiến "ung dung buồng lái ta ngồi" (Phạm Tiến Duật) mà trĩu nặng những ân tình, những bộc bạch, sẻ chia.

Cái tôi hồi ức, kể lể, giãi bày ấy là cầu nối hai mạch thơ, hai tính chất của bài thơ này : mạch tự sự và mạch trữ tình, tính chất "kể lại, phản ánh" (một câu chuyện) và "suy tưởng, chiêm ngẫm, cảm xúc" (những nông sâu lẽ đời). Đó là một kết cấu có thể tìm được ở nhiều bài khác (ví dụ Bát nước ngô của bà mẹ ở Cam Lộ, Bầu trời vuông, Tiếng đàn bầu, Hơi ấm ổ rơm). Nét riêng biệt của Đò Lèn có lẽ nằm ở những sức níu tương phản : hiện thực (cái đói, chiến tranh) và tâm linh (tiên, Phật, thánh thần), lịch sử và đời thường / cá nhân (bà, tôi). Và điêu kì lạ được cảm nhận từ sức mạnh của những tương phản là : cái đói không huỷ diệt được cái đẹp tâm linh trong khi chiến tranh (bom Mĩ giội) thì huỷ diệt được cả tiên, Phật, thánh thần. Nhưng cả đói nghèo lẫn sự tàn khốc của chiến tranh bất ngờ lại tôn lên sừng sững, vững chãi hình ảnh người bà. Do đó, một măt bài thơ là hiện thực, một hiện thực dữ dội, khủng khiếp ("nhà bà tôi bay mất", "bay tuốt cả chùa chiền", "thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết"), mặt khác cũng là tàm linh ("cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm") và một hình ảnh đời thực : "bà tôi di bán trứng ở ga Lèn". Sức mạnh của con người trong đời thực, vượt qua những chấn động lịch sử, sẽ còn ám ảnh hơn cả "mùi huệ trắng, hương trầm". Cảm hứng về cái đẹp (hồi ức tuổi thơ) sẽ dần chuyển sang cảm hứng về cái thường nhật (trong sự đối sánh với cái thiêng - giờ đã bị giải thiêng).

Ngôn ngữ thơ ở Đò Lèn giản dị, trong sáng, không một từ nào khó hiểu, nhưng khi đứng cạnh nhau trong một câu thơ, những câu cạnh nhau thành bài thơ, tất cả tạo nên một ám ảnh da diết lạ lùng.

Kí ức về tuổi thơ như ánh chớp loé lên những ấn tượng sống động, hiện hữu : hành động (níu váy bà), thú vui (câu cá, bắt chim sẻ, hái trộm nhãn), mùi hương (mùi huệ trắng, khói trẩm), một âm thanh điệu hát chầu văn, một dáng người lảo đảo,... Những địa danh cống Na, Bình Lâm, chùa Trần, dền Sòng, đền Cây Thị,... thân thuộc với tác giả, cũng không hề xa lạ với bất cứ người dân Việt Nam nào từng sống ớ thôn quê.

Nguyễn Duy thật tài tình khi chỉ phác vài nét bút đã có thể làm rõ, chẳng hạn hình ảnh một cậu bé "níu váy bà đi chợ Bình Lâm", "chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng" ; nhưng tài tình hơn là khả năng làm mờ, làm ảo hoá không gian, bằng và trong ngôn ngữ, ở hai câu thơ đẹp như ảo ảnh :

mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm

điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng.

Ngoài từ "thơm lắm" là một ấn tượng rõ (một xúc cảm ngây thơ) thì mồi chữ trong hai câu này đều ảo. Mùi huệ thơm, nhưng là mùi thơm "trắng", lại quyên với khói trầm trắng đục trở thành mùi hương duy nhất, hương kỉ niệm, hương tuổi hoa niên "thơm lắm", không gì thay thế được. Điệu hát văn là âm thanh, nhưng cũng là hình ảnh cô đồng "lảo đảo". Những từ ngữ đều nghiêng về cảm giác, hoặc nhìn ra cái hư ảo : mùi, trắng, quyện, khói, thơm, bóng, láo đảo,...

Ngữ pháp câu thơ cũng đặc biệt mà nếu thử phân tích chủ - vị hoặc tìm các cách ngắt nhịp sẽ thấy tính chất nhoè mờ của nó. Có rất nhiêu đoán định khác nhau từ các khá năng ngữ pháp của hai câu thơ này : mùi huệ trắng là chủ, nhưng cũng có thô "mùi huệ trắng quyên khói trầm" là chủ, mà "mùi huệ"/"trắng quyện khói" xem ra vẫn ổn. Cũng vậy, ở câu thứ hai có thể là : (trong) "điệu hát văn" "lảo đảo bóng cô đồng"/"điệu hát văn" (làm) "lảo đảo bóng cô đồng"/"điệu hát văn" và "bóng cô đôgng" cùng "lảo đảo",...Câu trên là một hương thơm ảo, màu sắc ảo (hương huệ, hương trầm, màu trắng hoa huệ, màu khói) câu dưới là một hình bóng ảo (cô đồng), một âm thanh ảo (điệu hát văn), bóng cô đồng lảo đảo đi ra từ điệu hát văn, chứ không phải một cô đồng thật (huống hổ lại là "bóng"!).

Kí ức của nhà thơ làm sống dậy một không gian say người : say vì hương thơm và âm nhạc, say vì một cái gì thuộc vể tâm linh, ảo diệu. Một cặp câu thơ tạo không gian "nhập đồng". Và đó là cái nhìn của hồi ức, là nét vẽ của hồi ức, phi lí tính. (Nó cũng giống như khi Nguyễn Duy viết vể Đà Lạt một lần trăng :

Trăng ảo ảnh lập lờ trong sương trắng

Ngọn gió nhà ai thấp thoáng bên đồi

Tiếng vó ngựa gõ ròn trên dốc vắng

Nghe mơ hồ một tiếng lá thông rơi...

Mỗi câu thơ đều tinh đến từng chữ, mà cái tinh cứ tự nhiên như không chút dụng công).

Những câu lạ của Đò Lèn chính là những câu thơ đưa dẫn về phía tâm linh, bằng cảm nhận nguyên sơ của con trẻ :

Tôi trong suốt giữa hai bờ hư - thực

giữa bà tôi và tiên, Phật, thánh, thần

cái năm đói, củ dong riềng luộc sượng

cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm

"Trong suốt" là một cảm nghiệm tâm linh, hay là một ảo giác, một tín ngưỡng của tâm hồn thơ dại giữa hư - thực, bà - tiên, Phật, thánh, thần ? Thực ra đâu sẽ là hư, đâu là thực ? Người bà cụ thể là thực chăng ? Nhưng cũng là hư khi có bao điều quan trọng mà "tôi đâu biết". Tiên, Phật, thánh, thần,... là hư mà cũng đã từng là thực trong niềm tin tuổi nhỏ. Ở đây, những tương phản tạo thành sức ám ảnh của từ ngữ, hình ảnh thơ như hư - như thực, cái hiện thực (củ dong riềng luộc sượng) - cái tâm linh huyền ảo, hay niềm tin lãng mạn vượt lên hiện thực ấy (mùi huệ trắng, hương trầm thơm). Cái đói là một hiện thực, nhưng nó không giết được cái đẹp. Nó giữ người ta ở trạng thái "trong suốt" - độ trong nhìn xuyên thấu, một trạng thái tồn tại không còn thân thể, một trạng thái hoà nhập tâm linh. Trong suốt chứ không phải trong veo trẻ thơ ("Tiếng ve trong veo xé đôi hồ nước" - Hoàng Nhuận Cầm), không phải trong trắng, trong sạch, trong biếc,... Trong suốt, là một cảm giác tâm linh.

Trong dòng hồi ức của người cháu, hình ảnh người bà là một ám ảnh, một niềm vui, một xa xót, một ăn năn,... Trở lại câu hỏi : Người bà là hiện thực hay là hình ảnh của tâm linh ? Nhiều bạn đọc chắc còn nhớ đến người bà tảo tần cùng bếp lửa sưởi ấm tuổi thơ của Bằng Việt:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

(Bếp lửa)

Và đây, người bà cơ cực như biết bao người bà, người mẹ Việt Nam, trong thơ Nguyễn Duy:

Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế

bà mò cua xúc tép ở đồng Quan

bà đi gánh chè xanh Ba Trại

Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn.

Những địa danh riêng ở đây vẫn đem lại cảm xúc chung vé quê hương nguồn cội ; người bà tuy là của "tôi" nhưng chẳng hề riêng tư. Chỉ với một từ "thập thững", người đọc đã như nhìn thấy những bước chân già nua trong giá rét : thập thững, không phải chập chững (bước chân của đứa trẻ đặt lên mặt đất từng bước một), như có cả hơi thở dồn. Không hoàn toàn giống đôi chân "Bước cao thấp bên bờ tre hun hút" đầy hốt hoảng trong câu thơ Hoàng Cầm, mà là bước đi thường ngày của người già : bước đi lên - xuống theo nhịp quang gánh trĩu xuống, yếu ớt, bước đi gây cảm thương... Nó thành một từ ám ảnh mà âm thanh khi đọc lên đã tạo sắc thái ý nghĩa. "Tôi đâu biết" là một cái giật mình, một nỗi xa xót, như cái giật mình, xa xót của bao nhiêu người con khi nghĩ về mẹ, vé bà - những người đàn bà Viột Nam. Hướng về cuộc đời cơ cực ấy, ngôn ngữ bài thơ cũng chân thực, dung dị. Đó là người bà của đời thường, xa lạ với cái nhìn thi vị, lí tưởng hoá (ý thức này ở Nguyễn Duy rất mạnh, ông thường khắc hoạ hình tượng mẹ theo cách này : "Mẹ ta không có yếm đào - Nón mê thay nón quai thao đội đầu - Rối ren tay bí tay bầu - Váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa").

Độ Lèn còn một hình ảnh về người bà được viên nổi trong không gian hiện thực dữ dội :

Bom Mĩ giội, nhà bà tôi hay mất

đền Sông hay, bay tuốt cả chùa chiền

thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết

bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn.

Cách dùng khẩu ngữ và giọng suồng sã của đời sống với lối nói "bay mất", "bay tuốt", "rủ nhau đi đâu hết" mang nét nghĩa mai mỉa càng làm rõ cái khốc liệt của chiến tranh. Tác giả không chỉ tạo một cảm giác "sốc" về sự kiện (bom Mĩ giội), mà còn tạo một con "sốc" cảm xúc hẫng hụt ("thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết"),... Chùa chiền, thánh, Phật là huyền thoại, là tín ngưỡng, nhưng cũng vẫn là cái khả biến, hoặc có thể chỉ là cái vỏ của huyền thoại mà tuổi thơ cả tin chẳng thể nhận ra.

Vậy đó, chiến tranh, bom Mĩ và sức tàn phá dữ dội của nó làm người ta thấy rõ : chẳng có gì kì diệu hơn sức mạnh của con người, kì diệu sao là sức mạnh của con người bình thường, bé nhỏ : "Bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn". Bình tâm như không là cái phi thường nhất trong bối cảnh hiện thực bất thường ấy!

Nếu theo mạch cảm hứng của thơ ca thời kháng chiến chống đế quốc Mĩ, có thể hình ảnh này sẽ khơi nguồn cho một huyền thoại mới : huyền thoại về con người. (Chẳng hạn, như đã từng thấy trong thơ Tố Hữu một mẹ Tơm "Bóng mẹ ngồi trông vọng nước non", "Sông trong cát chốt vùi trong cát - Những trái tim như ngọc sáng ngời" ; một mẹ Suốt "Ngẩng đầu mái tóc mẹ rung - Gió lay như sóng biển tung trắng bờ",...). Nhưng Nguyễn Duy không dừng ở cảm hứng khẳng định sức mạnh kì diệu của con người, không nhập vào dòng huyền thoại để ngợi ca, dù hình ảnh người bà bán trứng ừ ga Lèn xứng đáng là một trong những hình ảnh khắc ghi sâu đậm về con người Việt Nam trong cảnh "bom Mỹ giội" gợi triết lí về cái đời thường và cái lịch sử, cái khả biến và bất biến,... Khổ cuối cùng của bài thư vần đọng kết một nỗi buồn sâu, buồn lâu và một suy ngẫm phổ quát về những kiếp người bình dị, vô danh:

Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại

dòng sông xưa vẫn bên lở, bên hồi

khi tôi biết thương bà thì đã muộn

bà chỉ cồn là một nấm cỏ thỏi.

Cách kể "Tôi đi lính, lâu khống về quê ngoại" tưởng như lời tự sự bình thường, nhưng ngẫm ra, nó chất chứa trong đó cả một quá khứ, nén dồn thời gian dằng dặc của một cuộc chiến tranh, những nén dồn tâm trạng, vì con người bị cuốn theo dòng cháy lịch sử, không được sống với đời thường.

Nhiều người đã biết đến cái "nấm cỏ khâu xanh rì" như một triết lí buồn vể thân phận con người ("Trăm năm nào có gì đâu - Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì" - Cung oán ngâm khúc), hay cái nấm đất "sè sò" của Nguyễn Du bên con dường dập dìu bước chân trai thanh gái lịch như dinh mệnh dành cho ke "hồng nhan đa truân" ("Sè sè nấm đất bên đường - Dầu dầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh" - Truyện Kiều). Ở Đò Lèn của Nguyễn Duy, cái "nấm cỏ khâu" kia, cái "nấm dât sè sè" ấy, tròn nhỏ lại thành "nấm cỏ" ám ảnh hơn vì nó Việt Nam hơn, và càng ám ảnh khi đặt nó vào dòng thác cuộn chảy của lịch sử. Thiên nhiên thì vẫn vậy "dòng sông xưa vãn bên lỡ, bên bồi", chỉ có con người đã thành hư vô. Những cuộc biến thiên dâu bể tác động mạnh không chỉ đến một dân tộc, đến những cái thuộc về tín ngưỡng của dân tộc, không chỉ làm bay mất cả đền chùa miếu mạo mà cụ thể hơn, máu thịt hơn, nó hằn dấu lên kí ức con người, lên thân phận con người. Từ cách nhìn đó, bài thơ tưởng chừng rất cá nhân (cá nhân đến từ cái nhan đề Dò Lèn) lại mang đậm một cảm hứng lịch sử, một cách nhìn lịch sử, một sự "nhận thức lại lịch sứ". Nằm trong mạch suy ngẫm đó, những tác phẩm tự sự sẽ có tiếng nói lớn hơn (chẳng hạn Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh hay một số truyện ngắn mượn chất liệu lịch sử của Nguyẻn Huy Thiệp,...). Tuy nhiên, thư "nói nhó", nói nhẹ và buồn nhưng thấm thìa theo cách riêng.

Chuyện thánh thần bay mất... vừa có ý nghĩa tố cáo tội ác kẻ thù (vì tàn phá đến cả tín ngưỡng thiêng liêng) vừa hoá giải huyền thoại của một niềm tin ngây thơ, nông nổi (những cái dó mà cũng "bay mất", "bay tuốt") - nhất là khi ngôn từ thơ dầy chất suồng sã, hài hước thì cảm giác hoá giải huyền thoại càng rõ, vừa để khẳng định sức sống của những con nuười bình thường như "bà tôi" vừa giã từ ảo tưởng về quyển năng thần thánh. Cuối cùng, "bà tôi" cũng như bao con người xứng dáng là huyền thoại ấy lại trở về với "nấm cỏ" vô danh, khiêm nhường, nhỏ bé mà vĩnh hằng. Người ta vốn chỉ quen nhớ lịch sử theo những dấu mốc sự kiện; còn những phần chìm lấp, dễ bị lãng quên, những cá nhân nhỏ bé sẽ được ai nhớ đến nếu không phải thơ ca, không phải nghệ thuật ? Cái buồn ở bài thơ để lại ấn tượng đậm nét hơn cái đẹp, cái lãng mạn tâm linh, nhưng hoàn toàn có cơ sở để tin rằng thánh thần, chùa chiền có thể bay mất, riêng cái mùi hương trầm, huệ trắng vẫn sẽ thơm mãi trong kí ức con người - đó là một sức mạnh tâm linh không gì huỷ diệt được.

Quả là sức nén, sức ám ảnh của một bài thơ, có thể đáng sợ hơn một tiểu thuyết, điều này không phải là một cách nói ngoa.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư